Cách đây hơn năm, nhân có việc
qua Thăng-long, đại hiệp Trần Tự-An cùng một người bạn vốn là danh sĩ đế đô tên
Chu Anh, thả con thuyền trên sông, uống rượu thưởng trăng. Khoảng gần giờ Tư,
thuyền đi vào vùng Từ-ninh, ánh trăng chiếu xuống sáng vằng vặc. Sông Hồng nước
chảy mầu đỏ tươi như máu. Chu Anh cho thả neo, rồi hai người đem rượu, hoa quả
ra, vừa uống vừa nói truyện thế tục.
Giữa lúc hai người đang vui truyện, th́ đâu đó vẳng lại tiếng đàn, âm điệu thanh
tao nhẹ nhàng. Chu Anh sẽ ra hiệu cho bạn im lặng để thưởng thức âm thanh kỳ
diệu. Tiếng đàn đang êm đềm như sóng nước hồ thu, như thiếu nữ đang đu xuân. Bỗng
dồn dập, rồi chuyển sang buồn bă, nức nở như thiếu phụ pḥng không, than khóc
cho duyên phận.
Tự-An là người bác học, đa năng không học thuật nào ông bỏ qua. Duy có một điều
ông không thông, không hiểu ǵ về âm nhạc. Thế nhưng khi nghe tiếng đàn, giọng
hát, ông dễ bị cảm xúc theo âm điệu nhất. Bản đàn đứt, ông hỏi bạn:
Bản nhạc vừa rồi tên ǵ nhỉ, mà tôi chưa từng nghe qua?
Chu Anh đáp:
Bản này tên Xuân dạ Việt-nữ chiến Trường-an. Tác giả tên Nguyễn Giao-Chi, một nữ
anh hùng thời Lĩnh-nam.
Tự-An gật đầu:
À bản này có lai lịch rất hùng tráng. Nguyên vào thời Lĩnh-nam, lúc Trần Tự-Sơn
bị Quang-Vũ bắt giam ở Trường-an. Bắc-b́nh vương Đào Kỳ, cùng vương phi Nguyễn
Phương-Dung đem anh hùng đi giải cứu. Trên đường từ Phù-phong đi Trường-an,
Nguyễn Giao-Chi đă sáng tác bản này. Cho nên âm điệu hùng tráng th́ có hùng
tráng, buồn th́ cũng có vẻ buồn. Người đánh bản đàn này, ắt phải có kiến thức đây.
Bỗng có tiếng phách, tiếng đàn đáy cùng tiếng hát vọng qua. Hai người lắng tai
nghe:
Lĩnh-Nam là đất anh hùng,
Vua Bà ngự trị, một ḷng thương dân.
Mê-linh khởi nghĩa,
Ánh trăng soi, lửa chiếu đến ngang trời.
Vua Bà cầm bảo kiếm, quyết một lời:
Thề đem sức, giúp đời dành tự chủ.
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếm hăn thanh.
Khi đuổi giặc, rồi th́ đất tổ thái b́nh,
Đem tất cả hùng tài dựng lại nước.
Tài không thiếu, đức cũng đủ, dư thừa phương lựơc,
Chỉ hiềm v́, thế nước đă suy vi,
Cẩm-khê sóng cả bốn bề,
Anh hùng gieo xuống, hồn về cơi tiên.
Ngh́n năm lịch sử ghi tên.
Tự-An ngơ ngác hỏi Chu Anh:
Chu huynh, điệu hát này là điệu ǵ, tôi chưa từng nghe qua? Tôi chỉ phân biệt được
hai câu đầu ngâm theo lối Sa-mạc. C̣n lại th́ mù tịt.
Chu Anh trả lời bằng cái lắc đầu.
Hai người hướng mắt nh́n theo nơi phát ra tiếng hát, nơi đó có một con thuyền
nhỏ, đang để trôi theo gịng. Bỗng trên thuyền lại vang lên tiếng hát vọng buồn
năo nuột. Tiếng hát vừa cất cao, lập tức bị cắt đứt, thay vào đó bằng tiếng hét
lanh lảnh, đầy vẻ khủng khiếp, rồi có tiếng la:
Cứu tôi với!
Tiếng la bị gián đọan bằng tiếng ú ớ, rơ ra tiếng đàn bà bị bịt miệng. Tự-An bảo
phu đ̣:
Mau chèo thuyền lại phía con đ̣ nhỏ cho ta.
Thuyền lao tới con đ̣ nhỏ. Có tiếng nói lớn:
Thuyền ai kia, mau ngừng lại. Đừng dại can thiệp vào truyện của bang Hồng-hà mà
mất mạng.
Tự-An nhún ḿnh một cái, ông đă nhảy sang con đ̣ nhỏ. Một người tầm thước trên
đ̣ vung đao chém ông. C̣n ở trên không, ông phóng một chưởng hướng người ấy. Người
ấy bay bổng lên không rơi ṭm xuống nước. Tự-An đă đáp nhẹ nhàng trên con đ̣ nhỏ.
Hai người khác từ trong ḷng đ̣ chui ra, vung đao tấn công ông. Ông dơ tay phẩy
nhẹ một cái, đao người nọ chém vào đao người kia. Cả hai ngơ ngác ngẩn người ra.
Một tên hỏi:
Người là ai? Phải chăng người thuộc phái Đông-a?
Tự-An chụp cổ hai tên liệng xuống sàn thuyền, ông dẫm chân lên ngực chúng, rồi
hướng vào trong đ̣ hỏi:
__ Dám hỏi vị nào là chủ đ̣? Tại hạ Trần Tự-An phái Đông-a cứu viện trễ, làm các
vị kinh hoàng, thực có lỗi.
Ánh đèn trong đ̣ cùng ánh trăng chiếu sáng, hiện ra một trung niên nam tử, mặt
đẹp như ngọc tuổi khoảng bốn mươi lăm, bốn mươi sáu. Cạnh ông một thiếu phụ tuổi
khoảng bốn mươi, dáng người thanh nhă, khuôn mặt thanh tú, cử chỉ mềm mại. Phía
sau, một thiếu nữ tuổi khoảng mười bẩy, mười tám. Nàng cúi đầu trong thuyền, v́
vậy ông không nh́n rơ mặt.
Trung niên nam tử chắp tay hướng Tự-An:
Đa tạ đại hiệp cứu viện. Nếu không chúng tôi đă bị giết chết trên sông này rồi.
Tôi họ Đào, tên Phúc. Vợ tôi tên Bích-Lân. Chúng tôi đều làm nghề ca hát trong
thành Thăng-long.
Tự-An à lên một tiếng:
Th́ ra hai vị nổi danh Phúc-Lân song phụng đấy. Tại hạ ở Thiên-trường từng nghe
danh hai vị nức tiếng Long-thành v́ có giọng hát không thua ǵ Trương Chi. Tại
hạ thầm ước ao có ngày được diện kiến, không ngờ duyên may dun dủi, lại gặp hai
vị trên sông Hồng.
Đào Phúc hướng vào trong khoang thuyền gọi:
Hà-Thanh, con mau ra tạ ơn đại hiệp cứu mạng đi.
Thiếu nữ từ trong thuyền bước ra, nàng cúi đầu hành lễ:
Đa tạ Trần đại hiệp cứu mạng. Ơn này nguyện khắc cốt ghi tâm.
Chu Anh cho hai con thuyền kè sát vào nhau. Ông chắp tay:
Anh em chúng tôi ngồi trên thuyền uống trăng, hăm rượu, nói truyện cổ kim. Bỗng
đâu tiếng hát Song Phụng vọng qua, làm cho hồn phách như lên tiên. Nào mời hai
vị cùng cô nương Hà-Thanh sang bên này, chúng ta đàm đạo.
Tự-An hỏi hai tên đạo tặc:
Chúng bay tên ǵ, mau khai ra.
Vừa hỏi, ông vừa vận sức vào chân. Hai tên đạo tặc đau quá, rên rỉ. Một tên nói:
Tiểu nhân tên Công. C̣n người này tên Du. Bọn tiểu nhân thuộc bang Hồng-hà.
Các người lên con đ̣ này, với mục đích ǵ? Do lệnh của ai?
Thưa, bọn tiểu nhân được lệnh bang chủ theo dơi cô nương Hà-Thanh từ hơn tháng
nay. Bang chủ ra lệnh cho bọn tiểu nhân phải bắt cóc, đem về tổng đường. Hôm nay
bọn tiểu nhân mới ra tay.
Trần Tự-An đă nghe nói nhiều về bang Hồng-hà. Chúng làm ăn trên suốt giải sông
Hồng, sang sông Cầu, sông Đuống. Dân thuyền chài đánh cá, dân buôn gỗ từ mạn ngược
về, dân buôn trên sông đều phải phục tùng, nộp thuế cho chúng. Bằng không khó mà
yên ổn làm ăn. Bang chủ là ai, ông chưa từng nghe qua. Chỉ biết y gốc người Hoa,
vơ công rất cao cường. Ông cùng các sư đệ có ư tiễu trừ bọn chúng. Nhưng bang
chúng rất khôn khéo, không bao giờ họ đụng chạm với người của sáu đại môn phái
Lĩnh-nam. Chúng lại càng tránh không đụng tới quan binh. V́ vậy bang chúng ngày
càng đông, thế lực càng mạnh.
Trần Tự-An suy nghĩ rất nhanh:
Muốn diệt trừ một đảng cướp lớn như bang Hồng-hà, một ḿnh ta không thể làm nổi.
Ta cần bàn với các sư đệ, cùng chưởng môn nhân đại môn phái xem sao đă.
V́ vậy ông ôn tồn bảo hai tên lâu la:
Hai người về nói với bang chủ rằng Trần Tự-An phái Đông-a cấm chỉ bang chúng
không được làm khó dễ Song-Phụng đất Thăng-long. Dù các người chỉ đụng đến sợi
tóc cô Hà-Thanh, ta sẽ giết toàn bang không sót một người, dù con gà con chó
cũng không tha.
Nói rồi ông vẫy tay một cái, hai tên cướp rơi ṭm xuống sông. Chúng lặn đi mất
tăm.
Thời bấy giờ, trên toàn đất Đại-Việt có hàng trăm bang hội, hàng chục môn phái
nhỏ. Bang nào, môn phái nào cũng có đệ tử, gây ảnh hưởng trong vùng. Tự nhiên họ
tạo ra luật lệ không thành văn riêng biệt gọi là luật Vơ-lâm. Dù bang nào lớn,
mạnh đến đâu, dù phái to đến mấy cũng không được vi phạm luật lệ đó. Chủ trương
của mỗi bang, mỗi phái có nhiều điều khác biệt. Trong các phái, sáu phái lớn nhất,
đă thành lập từ lâu, đào tạo nhiều đệ tử làm lên sự nghiệp hển hách, đó là phái
Tiêu-sơn, Mê-linh, Đông-a, Tản-viên, Sài-sơn, và Tây-vu.
Cổ nhất phải kể phái Sài-sơn, do Phù-Đổng thiên vương sáng lập. Ngài được toàn
quốc tôn làm bậc thánh. Khi c̣n sinh thời, ngài đă làm lên công nhiệp kinh thiên
động địa. Một người, một ngựa, dùng gậy sắt phá giặc Ân. Sau đó ngài ẩn trên núi
Sài-sơn dạy đệ tử, lưu truyền đến nay. Ngài được tôn làm thánh, v́ sau khi qua đời,
ngài rất linh thiêng. Dân Việt thường gọi ngài bằng nhiều từ ngữ khác nhau như
Thánh Dóng, Thiên-vương hay Phù-Đổng Thiên-vương. Phái Sài-sơn không chỉ học vơ,
mà c̣n học cỡi ngựa, trồng cấy, Thiên-văn, Lịch-số, kể cả nấu ăn. Tôn chỉ của
phái này, lấy việc phù trợ quốc gia làm chính. Tổng đàn đặt trên núi Sài-sơn.
Hồng-Sơn đại phu hiện làm chưởng môn phái này. Nhưng ông lại không ở trên tổng đàn.
Tiếp theo, đến gần cuối đời Hồng-bàng, vua Hùng gả công chúa cho pḥ mă Sơn-Tinh.
Sơn-Tinh đem công chúa lên núi Tản-viên hưởng thanh phúc. Ngài cũng được tôn làm
thánh, dân chúng thường gọi ngài là thánh Tản-viên. Ngài tuy được tôn kính, song
chỉ về phương diện tôn giáo, v́ ngài rất linh thiêng. Thế kỷ thứ bẩy, linh khí
đất Việt bốc lên chín từng mây. Quan thái sử lệnh tâu lên vua Đường. Nhà vua sai
một người giỏi bậc nhất về phong thủy sang làm An-nam đô hộ phủ với lời dặn rằng
phải ếm tất cả những linh khí đất Việt, cùng phá các thế đất phát đế vương đi.
Cao Biền hoàn thành sứ mệnh khắp nơi. Chỉ duy có núi Tản-viên, y ếm mà không
thành công. Y bị thánh vật, súyt mất mạng dưới chân núi.
Đương thời thánh Tản-Viên thu dụng, cùng đào tạo đệ tử rất đông. V́ vậy các đời
sau lấy tên núi Tản-viên gọi môn phái này. Phái Tản-viên lấy tôn chỉ khuông phù
chính nghĩa, diệt trừ kẻ ác, cứu khốn pḥ nguy. Thời Lĩnh-nam, vua Trưng xuất
thân phái Tản-viên, mà thành đại nghiệp. Chưởng môn phái Tản-viên hiện là Đặng
Đại-Khê. Tổng đàn đặt trên núi Tản-viên.
Phái Tây-vu được thành lập vào thời Lĩnh-nam ( 39 sau Tây-lịch). Sự thực lúc
đầu, 72 động vùng Tây-vu, Thiên-sớ của các bộ lạc ít người như Thái, Mán, Mường,
Nùng, Tày, Mèo, đại hội, bầu Hồ Đề làm thống-lĩnh đặt tên chung 72 động là
Tây-vu. Trong cuộc khởi binh của vua Trưng, đệ tử Tây-vu đóng một vai tṛ cực kỳ
trọng yếu. Sau khi vua Trưng tuẫn quốc, họ c̣n kháng chiến, tự lập thành những
tiểu quốc gia riêng biệt, không chịu thống thuộc chính quyền Hán. Trải qua ngh́n
năm Bắc thuộc, cho đến đầu đời Lư (1010) tổng cộng c̣n 207 tiểu quốc, sử gọi là
Khê-động. Phái Tây-vu hiện do Thân Thừa-Qúi, pḥ mă của Thuận-thiên hoàng đế làm
chưởng môn. Nhưng người làm vua Bắc-biên của 207 khê động là Lĩnh-nam bảo quốc,
ḥa dân công chúa, con gái thứ nh́ của Thuận-thiên hoàng đế, tức vợ của Thân
Thừa-Qúi. Tổng đàn của phái này đặt ở núi Hoàng-liên-sơn.
Phái Mê-Linh, mới được thành lập vào thời vua Đinh Tiên-Hoàng. Nguyên sau khi
vua Trưng tuẫn quốc, các tướng sĩ ẩn thân vào dân chúng tiếp tục luyện vơ dạy đệ
tử, đợi một mai khôi phục đất nước. Phải đợi cho đến thời vua Đinh, Hoa-Minh
thần ni, mới viết thư mời tất cả các chi phái nguồn gốc từ thời vua Bà lại họp,
lập ra phái Mê-linh. Họ bao gồm đệ tử phái Long-biên, Hoa-lư, Cửu-chân,
Khúc-giang, Quế-lâm thời Lĩnh-Nam. Tôn chỉ của phái này thu gọn lại sáu chữ bảo
quốc, trấn bắc, b́nh nam. Tổng đàn hiện đặt ở núi vua Bà hay Mê-linh. Chưởng môn
là sư thái Tịnh-Tuệ.
Phái Tiêu-sơn được thành lập từ khi Tỳ-ni Đa-lưu-chi sang Lĩnh-nam. Ngài dạy
Thiền-công cho tổ sư Pháp-Hiền. Thiền công gốc ở cửa Phật. C̣n ngoại công lại do
một tục gia đệ tử tên Trần Tự-Viễn sáng chế ra. Phái Tiêu-sơn coi như được lập
vào thế kỷ thứ sáu. Trải qua bao thế hệ, sản xuất nhiều cao tăng đắc đạo. Đến đời
Bồ-tát La Quư-An, ngài mới chủ trương can thiệp vào việc đời, lập lại nước Việt.
Cho nên lịch sử Việt dùng danh từ Thầy tăng mở nước để nói về các ngài. Tổ thứ
mười hai là Vạn-Hạnh thiền sư, chủ trương đó mới thành công. Vua Lê Đại-Hành,
đại đệ tử của ngài có chiến công đánh Tống, bảo vệ đất nước. Đệ tử khác của ngài
là Lư Công-Uẩn lập ra triều Lư, tức Thuận-thiên hoàng đế. Tổng đàn của phái
Tiêu-sơn đặt tại chùa Tiêu-sơn. Chưởng môn hiện là Minh-Không thiền sư. Ngài giữ
nhiệm vu Quốc-sư tức thầy của nhà vua.
Mới nhất, phái Đông-a. Tổ của phái Đông-a là Trần Tự-Viễn, nhân học Thiền-công
nhà Phật của phái Tiêu-sơn, rồi chế ra ngoại công. Ông chính là tổ sư ngoại công
của phái Tiêu-sơn. Ông rời chùa Tiêu-sơn về Thiên-trường lập ra phái mới. Trong
chữ Hán, chữ Đông với chữ A hợp lại thành chữ Trần. V́ vậy phái này mang tên Đông-a.
Chủ trương của phái Đông-a bao gồm Bảo vệ đất nước, duy tŕ công đạo, cứu khốn
pḥ nguy. Chưởng môn hiện là Trần Tự-An.
Trong sáu phái, có năm vị nổi tiếng Đại-Việt ngũ long là Minh-Không, Đặng Đại-Khê,
Hồng-Sơn đại phu, sư thái Tịnh-Tuệ, và Trần Tự-An. Năm người như ông vua không
ngai. Vơ công, kiến thức cao không biết đâu mà lừơng. Vơ lâm Hoa-Việt nghe đến
tên vừa kính, vừa sợ. So về thực lực, phái Tiêu-sơn mạnh nhất rồi đến phái
Đông-a. Khi chưởng môn phái Tiêu-Sơn phán một câu, không ai mà không cúi đầu
tuân phục. Thứ đến phái Đông-a, có đến năm đại cao thủ ngang nhau. Họ rất đạo
đức, song không ai dám đụng vào phái này. Chỉ cần gây oán với họ, th́ coi như
cuộc đời không bao giờ yên ổn.
Hôm nay, Trần Tự-An đưa ra lời cấm đụng vào Long-thành Song-Phụng cùng Đào
Hà-Thanh. Hai tên cướp nghe tên ông mà kinh tâm động phách.
Tuy nghe Trần Tự-An đưa ra lời đe dọa bọn Hồng-hà, nhưng Đào Hà-Thanh cũng run
lật bật. Nàng hỏi:
Trần đại hiệp. Không biết...không biết chúng định bắt... bắt tiểu nữ làm ǵ?
Tự-An an ủi Đào Hà-Thanh:
Cô nương đừng sợ. Tuy chúng không nói ra, tôi cũng đă hiểu mục đích của chúng
rồi. Cô nương không biết vơ, chắc không thù oán ǵ với chúng. Tuổi cô nương c̣n
trẻ, không giầu có ức vạn, chúng bắt cô nương chẳng phải v́ của. Thế th́ chúng
bắt cô nương v́ nhan sắc diễm lệ mà thôi. Cô nương cứ yên tâm, chúng không dám
đụng đến cô nương đâu.
Hà-Thanh theo bố mẹ sang thuyền của Chu Anh. Chu Anh thân rót nước, đem hoa quả
mời khách, rồi ông nói:
Chúng tôi ngồi trên thuyền, trộm nghe giọng ca khi th́ như sương mờ ban mai, khi
th́ như mây chiều trên đồi, khi th́ lảnh lót như tiếng sáo diều. Ḷng cứ tự hỏi,
ai mà có giọng ca này. Th́ ra giọng ca Bích-Lân của Long-thành.
Ông quay lại giới thiệu với Trần Tự-An:
Trần huynh ở xa, lại không mấy chú ư đến ca hát, nên không biết danh Long-thành
Song-Phụng cũng phải. Đệ xin v́ huynh mà tŕnh bầy.
Khi vua Lư Thái-tổ thiên đô từ Hoa-lư ra Thăng-long, dân chúng bốn phương kéo về
lập nghiệp, không đầy một năm, đế đô trở thành một thị tứ đông người. Tửu lầu,
khách điếm mọc lên nhan nhản khắp trong cũng như ngoài thành. V́ vậy, bấy giờ
viên tri phủ Long-thành chia kinh đô làm hai khu vực. Khu nội thành có năm
phường. Khu ngoại thành có bốn phường. Tổng cộng chín phường. Thương nhân các
phường thi nhau làm sao cho phường ḿnh đẹp đẽ, để có thể thu hút người đến mua
bán.
Trong các tửu lầu, có bốn ngôi danh tiếng nhất. Ngôi thứ nhất ở cửa Bắc tên
Lạc-viên lầu, quay ra băi sông. Lạc-viên có hai tầng lầu, h́nh vuộng vức. Bốn
phía đều có thang gỗ lớn đi lên.
Ngôi thứ nh́ ở giữa thành, tên Nguyệt-cung lầu, quay ra hồ Tây. Nguyệt-cung lầu
có ba căn lầu, ngôi nào cũng có hai tầng. Ba ngôi cách nhau hai trượng. Từ ngôi
mọ sang ngôi kia nối với nhau bằng một, hành lang bằng gỗ. Dân bấy giờ gọi
Nguyệt-cung là Tam-nguyệt lầu.
Ngôi thứ ba đặt ở ngoài thành, về phía băi Ngọc-thụy. Tửu lầu là một con thuyền
cực lớn, chia làm hai tầng, đặt tên Động-đ́nh lầu. Lầu Động-đ́nh thường đậu ở
băi Ngọc-thụy, đôi khi di chuyển dọc theo sông Hồng.
Tửu lầu thứ tư mang tên Long-biên anh hùng quán xây trên băi sông Hồng về phía
Đông.
Tất cả các tửu lâu đều dùng hết khả năng nấu nướng, cung phụng cho thực khách
những miếng ngon vật lạ. Từ hơn mười năm về gần đây, các tửu lâu t́m cách mời
những danh kỹ bậc nhất đến hát, để lôi kéo danh sĩ. Trong các danh kỹ, cặp vợ
chồng Đào Phúc, Bích-Lân nổi tiếng bậc nhất.
Đào Phúc xuất thân trong một gia đ́nh ca nhạc. V́ vậy chàng được thụ lĩnh gịng
máu văn nghệ, cùng nghệ thuật cha truyền con nối. C̣n Bích-Lân, dáng người nhỏ
nhắn, được sắc đẹp trời cho, thêm gịong ca thiên phú. Hai người gặp nhau trong
những buổi hát trên tửu lầu, rồi họ nên đôi vợ chồng. Cặp tài tử đi hát ở cả bốn
tửu lầu. Danh sĩ Thăng-long đặt cho họ tên Long-thành Song-Phụng hoặc ghép tên
hai người thành Phúc-Lân.
Danh tiếng hai người vang khắp nơi. Ngày hai người hát ở tửu lâu nào, th́ tửu
lâu ấy đông nghẹt khách.
Cặp tài tử này có một điểm đặc biệt, họ không chịu đến các đại gia ca hát, dù
người mời là vương tôn, đại thần, dù chủ nhân trả bao nhiêu tiền, họ cũng từ
chối. Nhưng khi gặp tri kỷ, dù ở xa ngh́n dặm họ cũng t́m đến. Điều dễ thương
nhất, trong những ngày giỗ Quốc-tổ, ngày giỗ Thánh-gióng, ngày giỗ vua Trưng hay
ngày giỗ các anh hùng dân tộc, không ngày nào thiếu mặt họ. Họ tự đặt lời, ngụ ư
ca tụng công đức người xưa.
Trần Tự-An hỏi:
Hai vị nổi danh đại tài tử đất đế đô, mà tôi không biết, thực đúng là tên nhà
quê. Tôi muốn thỉnh hai vị ít điều, vừa rồi Bích-Lân hát một bài ca tụng vua
Trưng, nhưng tôi không biết đó thuộc điệu hát ǵ?
Bích-Lân hơi bẽn lẽn:
Điệu hát đó do chúng tôi cùng Hà-Thanh mới sáng chế ra.
Đào Phúc tiếp lời vợ:
Tự cổ, đất Việt có nhiều điệu ca. Đến đời vua An-Dương c̣n tới tám. Nhưng kể từ
sau vua Trưng tuẫn quốc, cho tới nay không c̣n nguyên thủy nữa, mà bị ḥa lẫn
với nhạc Trung-nguyên. V́ vậy chúng tôi mạo muội chế ra điệu ca mới.
Tự-An mừng qúa, ông hỏi:
Hai vị định đặt điệu ca này ra sao?
Chúng tôi chưa đặt tên. Song, danh sĩ Thăng-long nghe Bích-Lân, Hà-Thanh hát, họ
tặng cho tên Hát ả Đào v́ chúng tôi họ Đào. Trong một lần chúng tôi hát chầu
Phù-Đổng Thiên-vương, được các vị cao nhân phái Sài-sơn đặt cho tên Ca-trù .
Ghi chú,
Đoạn này thuật hành trạng, nguồn gốc của tổ sư một điệu hát cổ Việt mang tên
Ca-trù, Hát-nói, hay Hát Ả-đào. Ca-trù đến thời Nguyễn (1802-1945) trở thành cực
thịnh. Nhờ Hát-nói, mà văn học Việt lưu lại nhiều áng văn chương tuyệt tác. Các
thi nhân nổi tiếng của Hát Ả-Đào là Cao Bá-Quát, Nguyễn Công-Trứ, Dương Khuê,
Chu Mạnh-Trinh, Tản Đà. Hiện nay (1995) Ca-trù được coi như một bộ môn nghệ
thuật, được giảng dạy tại các trường âm nhạc trong nước. Những danh ca nổi tiếng
là Hà Vy, Diệu Linh, Thúy-Ḥa... Hồi thơ ấu, thuật giả được tiền nhân giảng dạy
hết sức chu đáo về thú tiêu khiển này.
Bích-Lân chỉ Hà-Thanh:
Hồi đầu tôi đặt lời, không có nguyên tắc nào cả. Sau Hà-Thanh sửa đổi dần, thành
lề lối, nguyên tắc. Hiện các danh kỹ Thăng-long đều sáng tác theo nguyên tắc
chúng tôi đặt ra.
Bích-Lân chỉ vào cái đàn đáy trước mặt:
Khi hát, cần có nhạc công dùng đàn đáy đệm. Ca kỹ phải dùng cặp phách đánh nhịp.
Trong lúc hát, cần có một danh sĩ ngồi bên cái trống nhỏ với dùi. Danh sĩ tùy
theo giọng ca kỹ mà khen hay chê. Khi khen, đánh một tiếng trống, khi đến chỗ
tuyệt hay đánh ba tiếng. C̣n khi ca kỹ hát dở, đánh vào thành trống.
Chu Anh gật đầu:
Hiện nay, người ta thường gọi tiếng trống là tom tiếng gơ vào thành trống là
chát. Trong bốn đại tửu lầu đều có danh kỹ hát Ả Đào. Nhưng không ai hơn được
Long-thành Song-Phụng cùng cô nương Hà-Thanh.
Đào Phúc kính cẩn nói với Tự-An:
Hôm nay bèo mây gặp gỡ anh hùng. Chúng tôi xin hát lại khúc chầu vua Trưng hồi
năy, mong đại hiệp chỉ cho chỗ khiếm khuyết.
Đào Phúc đưa trống và dùi cho Chu Anh cầm chầu. Chàng ôm cây đàn đáy dạo lên mấy
tiếng. Hà-Thanh cầm cặp phách gơ vào nhau. Nàng ngâm Sa-mạc hai cầu đầu, tay gơ
nhịp bằng phách. Tiếp theo các câu khác nàng cất cao giọng hát. Cho đến câu lục
bát cuối, nàng lại ngâm Sa-mạc, sau đó buông thơng câu cuối cùng.
Tự-An bị giọng ca êm đềm, nhẹ nhàng như gió thoảng của Hà-Thanh đưa vào giấc
mộng huyền ảo. Mặt nàng vốn đẹp như người đi trong sương như có như không, thêm
giọng hát ḥa lẫn với đàn, tiếng phách, khiến ông như ngây như dại.
Bài ca vừa dứt, Tự-An chưa kịp khen ngợi, nàng đă bắt sang bài khác, mở đầu bằng
câu lục bát ngâm Sa-mạc:
Cái t́nh là cái chi chi,
Anh hùng, danh sĩ mấy khi thoát ṿng.
Khi hạ xuống câu bát, nàng liếc nghiêng, khóe mắt lướt trên người Tự-An, miệng
nở nụ cười, rồi ngừng lại:
Trần đại hiệp, em chế ra lối hát này đấy. Ca-trù có đôi chút ảnh hưởng của người
Hoa mà thôi. Một bài hát thông thường có ba khổ. Khổ đầu gồm ba câu, câu đầu là
lá đầu, hai câu kế là xuyên thưa. Khổ giữa có bốn câu, hai câu đầu là hai câu
thơ, có thể là ngũ ngôn, có thể là thất ngôn, cũng có thể thực dài. Miễn hai câu
phải đối nhau. Hai câu kế là xuyên mau. Khổ cuối cùng là khổ xếp, gồm có ba câu.
Câu đầu là dồn câu kế là xếp, câu cuối cùng là keo. Tổng cộng mười một câu.
Trần Tự-An nghe nàng nói, gật đầu:
Từ cổ ḿnh vốn có văn tự Khoa-đẩu, với một nền văn chương giầu có. Khi Mă Viện
sang chiếm Lĩnh-nam, y cấm lưu truyền văn tự Khoa-đẩu, cấm học. Thành ra cho đến
nay không c̣n tác phẩm nào cả. Hơn ngh́n năm bị người Tàu cai trị, ḿnh không
c̣n gốc, đành lấy cái của người làm của ḿnh. Cho nên hiện trong triều, ngoài
dân dùng chữ Hán. Các thể thơ văn dùng Phú, Sở-từ, thơ Đường. Dần dà không c̣n
ǵ của ḿnh cả. Nay cô nương đưa ra thể Ca-trù, hoàn ṭan do cảm hứng sáng tạo,
thực hợp lư.
Chu Anh hỏi:
Trong bài ca ban năy, cô nương có ngâm theo điệu Sa-mạc một cặp lục bát ở đầu và
một cặp ở cuối. Ư nghiă như thế nào?
Hà-Thanh nghiêng đầu bẽn lẽn:
Em chế thêm biệt lệ. Đúng ra một bài Ca-trù phải có đủ những câu trên. Nhưng
cũng có ngọai lệ. Một bài có thể thêm một cặp lục bát ở đầu gọi là mưỡu đơn hoặc
hai cặp lục bát gọi là mưỡu kép. Có mưỡu đầu, th́ cũng có mưỡu cuối. Mưỡu cuối
phải đặt lên trên câu keo. Mưỡu cuối cũng có thể là mưỡu đơn hay mưỡu kép. Khi
hát, câu mưỡu ngâm theo giọng Sa-mạc.
Hà-Thanh lại cất tiếng ca bài Mùa xuân Động-đ́nh thuật lại truyện Quốc-tổ Lạc
Long-Quân cùng Quốc-mẫu Âu-Cơ gặp nhau. Nàng vừa hạ xuống câu keo, th́ phu đ̣
vào nói với Chu Anh:
Thưa chủ nhân, có mười con thuyền, trên thắp đèn, đang hướng đến thuyền chúng
ta. |