Tài liệu này trích từ hồi kư Những kỷ niệm về Bác Hồ của ông Hoàng Tùng, nguyên
bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên tổng biên tập báo Nhân Dân. Tập
hồi kư này vừa phát hành liền bị thu hồi v́ những điều ông Hoàng Tùng tŕnh bày
về ông Hồ tuy trung thực nhưng có tính cách tiêu cực. Và càng bị cấm đoán th́ người
ta càng tin những điều ông Hoàng Tùng về ông Hồ là chính xác. Đảng Cộng sản vốn
biến ông Hồ thành thánh từ lâu nên không chấp nhận bất cứ quan điểm tiêu cực nào
về ông Hồ. Những tiết lộ của Hoàng Tùng về ông Hồ đă cho thấy ông có những sự
trăn trở, lo lắng, đau đớn, những thất bại và thất sủng trong suốt cuộc đời cách
mạng của ông. Những chi tiết này sẽ làm cho các sử gia và hậu thế có một cái
nh́n đúng đắn và chân thực hơn về con người và sự nghiệp cách mạng của Hồ chí
Minh.
V́ quan hệ của ta với Trung Quốc và Liên Xô không được thuận tiện, cho nên khi
chính quyền của ta được thành lập th́ hai nước đều không công nhận. Trung Quốc
th́ quan hệ không chính thức. Hai người sang ta đầu tiên nhân danh Đảng mà cũng
là Đảng địa phương thôi, đó là Chu Nam và Trang Điền. Một người là chính ủy, một
người là tư lệnh quân khu Hoa Nam sang nhờ ta giúp họ tiễu phỉ ở Thập Đại Vạn
Sơn. Sau đó ta có cử một trung đoàn do Lê quảng Ba phụ trách sang Trung Quốc.
Các đồng chí Việt Nam ở Diên An và Trung Quốc sau khi thấy cách mạng Việt Nam
thắng lợi th́ xin về. Lúc đầu là Nguyễn khánh Toàn, Nguyễn Sơn, Lư Ban, Trương
ái Dân, Cao tử Kiến. Trương ái Dân trong thời gian kháng chiến chống Pháp làm
công tác công vận ở Liên khu 3 do tôi phụ trách. Đồng chí ấy nói với tôi rằng,
sau cuộc khủng bố của Pháp năm 1930-1931, đồng chí ấy sang Trung Quốc hoạt động
cách mạng, được đi Diên An. Trong cuộc vận động chỉnh phong năm 1942-1943, đồng
chí ấy bị thẩm vấn lư lịch. Người ta hỏi người đứng đầu Đảng Cộng sản là ai, đồng
chí ấy trả lời là Trần văn Giàu, liền bị chôn một nửa người xuống hố sâu. Sau đó
không hiểu v́ sao được thả. Sau Cách Mạng tháng tám năm 1945, đồng chí được về
nước cùng với một số người nói ở trên. Cao tử Kiến công tác ở Yên Bái trong thời
gian kháng chiến chống Pháp.
Sau khởi nghĩa ta mở một lớp huấn luyện ở Vạn Phúc cho cán bộ học. Nghe anh Lê đức
Thọ nói lại là Hồng Lĩnh, tức Nguyễn khánh Toàn, nói chẳng ai hiểu ǵ cả. Sau
tôi nghe mấy người khác nói ông ta là một giáo sư giỏi lắm. Cả Bùi công Trừng đi
học ở Liên Xô về nói cũng thế cả.
Về quan hệ với Liên Xô, tôi biết Liên Xô, nhất là Stalin coi Bác là một người
dân tộc chủ nghĩa cải lương từ năm 1928. Sau lại thêm việc Bác bị bắt ở Hồng
Kông rồi lại được thả, khiến Liên Xô nghi ngờ. Stalin không hiểu được lại có
những người như Loseby ( *). Lại thêm việc Hà huy Tập báo cáo. Anh Lê Duẩn có
nói với tôi là Hà huy Tập báo cáo với Quốc Tế về việc mật thám đưa bà Thanh (
chị Hồ chí Minh) đi Trung Quốc t́m Nguyễn ái Quốc và ra nghị quyết phê phán sai
lầm dân tộc chủ nghĩa cải lương của Nguyễn ái Quốc. Bác đến Liên Xô năm 1934-38
chỉ làm công tác ở Ban thuộc địa của Quốc tế Cộng sản, không được giao nhiệm vụ
cụ thể. Người được giao nghiên cứu làm luận án phó tiến sĩ về vấn đề thuộc địa.
Bác xin được làm nhưng không được trả lời. Người xin về nước. Tại Đại Hội Quốc
tế Cộng sản lần thứ 7, Người không tham gia đoàn đại biểu Đảng ta, chỉ là đại
biểu dự thính. Liên Xô vẫn cho rằng Việt Minh là một thế lực dân tộc chủ nghĩa.
Họ không thấy Đảng Cộng sản đâu, và v́ sao Đảng Cộng sản giải tán. Năm 1948, cả
hai nước đều t́m hiểu xem Việt Nam là ǵ. Đảng ta cử Nguyễn Chương ( cùng ở xứ
ủy với tôi )làm phó cho Lê đức Thọ sang Xiêm tổ chức lại tổ chức của ta ở đó.
Trong khu ủy của khu bốn, mọi người mâu thuẫn với nhau, mà toàn những lăo thành
cả như Nguyễn Sơn, Hoàng văn Hoan, Hồ tùng Mậu, Trần hữu Dực. Ông Hoàng văn Hoan
th́ nổi tiếng về những chuyện kèn cựa ngay từ đầu. Ta cử Hoàng văn Hoan bàn với
Nguyễn Chương ( có thể là do gợi ư của Trung Quốc ) là cử Nguyễn Chương sang
Trung Quốc để nghiên cứu. Nhưng thực tế Trung Quốc muốn qua Nguyễn Chương để t́m
hiểu t́nh h́nh Việt Nam. Nguyễn Chương đến Trung Quốc báo cáo t́nh h́nh. Phương
hướng báo cáo cũng hữu khuynh đúng như họ đánh giá, nói là ta dân tộc chủ nghĩa,
đề cao địa chủ quan lại, không nêu cao vai tṛ của Đảng và liên minh công nông.
Đại diện của Liên xô ở Praha gặp hai đại diện của ta là Trần văn Danh và Lê Hy
hỏi t́nh h́nh. Hai người này nói cũng ăn khớp với Nguyễn Chương nói. Nói khớp như
nhau bởi v́ chúng tôi lúc đầu nghiên cứu theo cương lĩnh của đồng chí Trần Phú,
nghĩa là cương lĩnh thứ hai của Quốc tế Cộng sản, tức là làm cách mạng tư sản
dân quyền, lấy công nông làm trụ cột, do giai cấp công nhân lănh đạo, lập chính
quyền xô viết ?...Chỉ đến khi Cách mạng Trung Quốc thắng lợi, Bác trực tiếp sang
mới tŕnh bày rơ vấn đề. Việc này tôi không được nghe trực tiếp, chỉ nghe anh Lê
văn Lương nói lại. Khi gặp Bác, Lưu thiếu Kỳ nói ngay rằng : Các đồng chí giải
tán Đảng, các đồng chí tưởng lừa được địch, nhưng địch không lừa được mà lại lừa
chính chúng tôi, v́ chúng tôi hiểu rằng các đồng chí giải tán Đảng thật. C̣n địch
nó thừa hiểu các đồng chí không giải tán Đảng. Hôm tuyên bố giải tán Đảng tôi
không được dự, nhưng nghe nói lại rằng, quyết định này của Bác thật là táo bạo.
Lúc đó không làm thế cũng nguy, v́ âm mưu của Tưởng là đánh đổ Cộng sản. Với bọn
Lư Hán, Tiêu Văn, Đảng Cộng sản tồn tại là chúng nó chết, v́ sẽ bị Tưởng trị.
Nên ta mới lập mẹo tuyên bố giải tán Đảng, chỉ tuyên bố về danh nghĩa mà thôi,
c̣n trên thực tế Đảng vẫn tồn tại. Khi đưa ra bản tuyên bố giải tán Đảng ở Thường
vụ, người không tán thành nhất là đồng chí Trường Chinh. Sau Tưởng không có lư
do ǵ thúc ép khi Đảng đă tuyên bố giải tán.
Sau Trung Quốc, Mao đưa Bác vào quỹ đạo của Mao. Sang tới Liên Xô, Stalin lại
đưa Bác vào quỹ đạo của Stalin. Chuyến đi Trung quốc và Liên xô năm 1950 của Bác
là chuyến đi gian khổ. Khi đó Stalin nói : Bây giờ cách mạng Trung quốc thành
công rồi, Trung quốc có trách nhiệm giúp đỡ các nước phương Đông, cũng như Liên
xô có trách nhiệm giúp đỡ các nước châu Âu và châu Mỹ. Trung quốc cho như thế là
Quốc tế Cộng sản đă phân công Trung quốc phụ trách châu Á. Bám vào ư kiến ấy,
sau này Trung quốc coi như là người đỡ đầu ta. Tôi cho rằng v́ lư do đó như thế
mà mấy lần Bác từ chối làm Tổng bí thư, có lẽ Bác cho rằng nếu Bác nhận làm Tổng
bí thư th́ Liên xô sẽ gay chuyện. Từ Đại hội Đảng ta lần thứ nhất ở Macao, Hà
huy Tập đă phê phán Bác như Quốc tế Cộng sản đă phê. Bác không nhận là chủ tịch
nước cũng là thật ḷng chứ không khách khí. Sau này anh Lê đức Thọ nói với tôi
rằng khi đề nghị Bác làm chủ tịch nước th́ Bác từ chối măi, Bác nói ḿnh là chủ
tịch nước à ? Ḿnh chỉ đứng đằng sau thôi, c̣n t́m người khác làm. Người c̣n nói
nếu t́m khó quá cứ đưa Bảo Đại ra làm rồi ḿnh thu xếp. Bác thực sự v́ cách mạng
chứ không v́ ḿnh.
Đây là về phía Liên xô, Trung quốc, c̣n về phía Đảng Cộng sản Pháp, là Đảng thân
thiết với ta, lúc đầu họ cũng cho Việt Minh là phái thân Nhật chứ không phải
Cộng sản. Năm 1950, Đảng Cộng sản Pháp phái Léo Figuères, ủy viên dự khuyết của
Trung ương, phụ trách tờ báo Thanh Niên, sang điều tra t́nh h́nh của ta. Léo
Figuères đến Việt Bắc. Về mặt chức vụ, tôi cũng tương đương với anh ta, nên được
cử tiếp anh. Cố nhiên là năm 1946, khi sang Pháp Bác cũng đă nói được một phần
nào rồi, nhưng Đảng Cộng sản Pháp chưa thể hiểu hết. Léo Figuères muốn biết thực
sự Đảng Cộng sản có tồn tại hay không, anh ta đi khắp các nơi, ở đâu cũng thấy
có Đảng Cộng sản, mà đảng viên Đảng Cộng sản là những người lao động, những người
công nhân, trí thức, c̣n quan lại, địa chủ là tượng trưng bên ngoài thôi. Từ đó
Đảng Cộng sản Pháp mới thực sự công nhận ta. Cũng từ đó mới có các phong trào
ủng hộ Việt Nam. Trước đó, Đảng Cộng sản Pháp không làm ǵ để ủng hộ ta. Đó là
khó khăn đối với Bác lúc bây giờ. Trong nội bộ t́nh h́nh nói chung ổn định, trừ
mấy trường hợp, như Trần văn Giàu. Giàu học ở Liên xô về. Tôi biết có người tên
là Phi Vân, cũng học ở Liên xô về, bị đi tù ở Sơn La. Khoảng năm 1935, ở tù cùng
với Phi Vân, tôi hỏi Phi Vân có nhận xét ǵ về Nguyễn ái Quốc. Vân nói ông già
này không có ǵ đâu, ở nhà cứ tưởng là nhân vật quan trọng lắm, chứ ông ta là loại
dân tộc chủ nghĩa, tŕnh độ lư luận kém. Đó là cách nhận định về Bác của mấy người
đi Liên xô về. Trần văn Giàu thuộc loại trên. Có lần Trần văn Giàu nói với tôi,
năm 1932 về, anh là bí thư, sau khởi nghĩa Nam kỳ thất bại, anh em ḿnh nhiều người
bị bắt, anh đứng ra lập một tổ chức tiên phong, coi như ṇng cốt của cách mạng.
Cuộc khởi nghĩa ở Sài g̣n chính anh là người lănh đạo. C̣n ở Nam bộ một số đồng
chí của ta như Ung văn Khiêm, Hà huy Giáp, Nguyễn thị Thập ra nắm vùng nông thôn.
Ba người này ra ngoài Bắc dự Hội nghị Tân Trào. Nguyễn thị Thập đến không kịp,
Ung văn Khiêm đến chỗ tôi rồi đi Tân Trào, chứ Trần văn Giàu không được thừa
nhận. Việc phân xử Trần văn Giàu có các lớp đàn anh đi tù ở Côn Đảo về. Họ là
bậc thầy ở Nam Bộ, là những người lănh đạo quen thuộc của nhân dân Nam Bộ. Thế
của Trần văn Giàu yếu đi,về sau cấp trên điều Trần văn Giàu đi Xiêm.
Trong Đảng có hai nguồn đào tạo, một học ở Liên xô về, một học ở Trung quốc về.
Do đó họ theo quan điểm của hai nơi, có những ư kiến không giống nhau, đôi lúc
hục hặc với nhau. Nhưng nói chung cả hai bên đều chịu Bác. Chỉ có Nguyễn Sơn về
sau có vấn đề phải ra đi. Trước khi mất, Nguyễn Sơn có tâm sự với tôi rằng sai
lầm th́ phê b́nh chứ sao lại đuổi đi. Ông ta trách Bác. Lúc đó tôi hỏi anh Vơ
nguyên Giáp, anh ta hay hục hặc như thế để anh ta làm phó cho anh có được không,
Vơ nguyên Giáp nói làm phó thế nào được, anh ta suốt ngày chửi tôi, anh ta c̣n
phê b́nh trường Nguyễn ái Quốc rất ghê. Sau Bác nói chú Nguyễn Sơn hữu tài nhưng
..nên mời chú đi..Thực ra cái khó của hai nhóm này là không hiểu được tư tưởng
biện chứng Mác-xít. Ta làm cách mạng ở một nước thuộc địa chứ không phải làm
cách mạng ở một nước tư bản, hay quân phiệt nông dân như Trung quốc. Vấn đề
thống nhất dân tộc Việt Nam nhiều người không hiểu được, cho đến tận bây giờ
nhiều người vẫn hiểu là phải nhấn mạnh liên minh công nông. Bác có lúc nói Đảng
của giai cấp là theo thời cuộc, và cũng là để chiều ḷng người..Bác định nghĩa
Đảng đúng nhất là ở Đại hội 2. Đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động,
tức là của dân tộc Việt Nam. Bây giờ lại càng đúng, v́ nông dân, công nhân đâu
có cách biệt ǵ lớn, không phải là giai cấp bị áp bức, cùng làm chủ cả, cùng là
người lao động tự do, thêm một số trí thức nữa, chứ không phải chỉ có giai cấp
công nhân mới ra đời mấy chục năm nay. Bác hết sức sâu sắc nhưng người không nói
ra. Những bài viết, những bài phát biểu của Bác từ năm 1920 đến năm 1925 có phân
tích sâu sắc, lư luận sắc bén. Sau này, từ Cách mạng tháng 8 trở đi, Người viết
ngắn gọn, đi thẳng vào vấn đề, không phân tích dài ḍng để quần chúng dễ hiểu.
Hai bên không hiểu, cứ chiếu tướng nhau rồi sinh chuyện. Nói Bác lư luận kém là
hoàn toàn sai.
Sau khi gặp Stalin và Mao, hai bên cứ thúc ép Bác làm như họ, tức là liên minh
công nông, do Đảng lănh đạo, lập chính quyền công nông, rồi làm cải cách ruộng
đất. Bác chưa muốn làm cải cách ruộng đất. Thuyết ba giai đoạn của đồng chí Trường
Chinh đưa ra ở Đại hội 2 là có ư kiến của Bác. Theo thuyết ba giai đoạn th́ cải
cách ruộng đất để sau, hăy làm giảm tô, giảm tức. Đồng chí Trường Chinh phân
tích rất hay. Năm 1946, họp Xứ ủy, tôi được nghe ông nói : Dưới chính quyền Cách
mạng, những cải cách nhỏ đều có ư nghĩa cách mạng, nhiều cải cách nhỏ cộng lại
thành cuộc cách mạng lớn.
Mùa thu năm 1950, Trung quốc phái hai phái đoàn cố vấn sang Việt Nam. Một đoàn
chính trị do La quư Ba làm cố vấn. La quư Ba trước là bí thư của Mao, bí thư Sơn
Tây. Ông này là người nghiêm chỉnh, phục Mao trạch Đông như một ông thánh. Ông
là người tin cẩn của Mao. C̣n tổng cố vấn về quân sự là Vi quốc Thanh. Đoàn cố
vấn quân sự đông hơn, v́ nó có đủ cả bộ máy của quân sự. Ta không hiểu thâm ư
của Trung quốc là muốn sửa ta. Họ sang để giới thiệu kinh nghiệm Trung quốc, lư
luận Mao trạch Đông, lư luận quân sự, tổ chức quân đội. Việc đầu tiên của họ là
sửa quân đội đă. Họ sửa cả Đảng trong quân đội cho nên mới lập ra chức chính ủy.
Trước ta chỉ có chính trị viên. Cùng là chính trị cả nhưng có khác nhau về chức
năng. Chính ủy là người bao trùm lên tư lệnh, chứ không phải tư lệnh là người
quyết định. Lập ra chính ủy là để xác định vị trí của Đảng, mà việc đầu tiên là
nhắm vào ông Giáp. V́ ông Giáp xuất thân từ trí thức, năm 1950 mới có 10 tuổi Đảng,
mặc dù ông tham gia cách mạng từ những năm 1930, nhưng ông hoạt động bị bắt, rồi
lại đi học, măi đến năm 1940 mới được Bác kết nạp vào Đảng. Theo Trung quốc, ông
là một trí thức, xuất thân không phải công nông, để ông nắm quân sự là không ổn.
Đặt ra chức chính ủy là để phụ trách Đảng trong quân đội. Có người đưa ra đoàn
cố vấn một danh sách cán bộ trong quân đội xuất thân từ gia đ́nh không phải là
công nông, định để gait ra khỏi quân đội. Ai đưa danh sách này cho đoàn cố vấn ?
Tôi ngờ rằng đó là một người trong quân đội, người này là Lư Ban, phó của Văn tiến
Dũng. Văn tiến Dũng là cục trưởng, Lư Ban là cục phó. Ông Giáp mới đưa danh sách
đó cho Bác, Bác bảo đốt ngay đi, thay bằng ấy người th́ quân đội không c̣n cán
bộ. Nguyễn hữu An, Đặng vũ Hiệp đều trong danh sách ấy cả, v́ thuộc trí thức.
Theo họ, chấn chỉnh quân đội trước để chuyển sang tổng phản công. Lúc đó ta tin
tưởng quá nhiều vào Trung quốc, v́ các ông Trang Điền, Chu Hạ sang nói khi nào
Quân giải phóng nam hạ th́ sẽ giúp Việt Nam đánh Pháp.
Đầu năm 1950, Bác cùng bộ chính trị phân tích t́nh h́nh, mối quan hệ giữa
thế và lực. Lực của ta c̣n yếu, mới có một đơn vị tổ chức thành đại đoàn 308. C̣n lại
là tiểu đoàn và trung đoàn. Lực lượng thực sự cũng yếu. Tổng phản công lúc này
cũng khó. Chỉ hy vọng ở cái thế. Bác đă viết trong Học đánh cờ : Lực yếu nhưng
thế mạnh th́ lực sẽ tăng. Về lư luận th́ đúng, nhưng c̣n trong điều kiện cụ thể
lại khác. Nên ta tính năm 1950 chưa thể tổng phản công được. Vi quốc Thanh chuẩn
bị, mọi việc nhất nhất xin ư kiến của Mao. Mùa thu năm 1950, ta đánh chiến dịch
Biên giới Đường số 4. Trần Canh trực tiếp sang giúp. Tôi nghe nói lúc đầu ta định
đánh từ Cao Bằng ( theo ư ông Giáp ). Trần Canh nói ta nên đánh Đông Khê. V́ Đông
Khê là tuyến chính nhất ở trên này. Mà đánh vào điểm yếu th́ cả pḥng tuyến của
địch sẽ bị rung. Đánh vào điểm mạnh th́ ta chưa đủ sức. Đúng là Trung quốc có
công giúp ta trong trận Biên giới. Sau thắng lợi mới, tổng kết chiến dịch và sau
đó là tiến hành chỉnh huấn, chỉnh quân, thay đổi lại tổ chức quân đội.
Thế là năm 1950-51 đoàn cố vấn thực hiện chỉnh đốn quân đội. Các chỗ khác họ
chưa đụng tới. Đại hội Đảng ta năm 1951, đại biểu nước ngoài tới dự chỉ có La
quư Ba, bên Kamphuchia có Xiêng Hiêng ( sau phản bội ), phía Lào có một đại
biểu. Tại Đại hội, La quư Ba phát biểu chủ yếu về thuế nông nghiệp. Sau đó bắt
đầu đánh thuế. Họ đem các nề nếp từ bên Trung quốc sang, đem kinh nghiệm chỉnh
đảng, chỉnh phong từ Diên An sang. Sau Đại hội ta không nói ǵ đến cải cách
ruộng đất, chỉ thấy nói đến lư thuyết ba giai đoạn, v́ thế nên mùa hè năm 1952,
Mao trạch Đông và Stalin gọi Bác sang, nhất định bắt phải thực hiện cải cách
ruộng đất. Sau thấy không thể từ chối được nữa, Bác mới quyết định phải thực
hiện cải cách ruộng đất. Bác viết một bài nhan đề , Terre et eau ( đất và nước
), kư tên là Le Ding, đăng ở tạp chí V́ một nền ḥa b́nh lâu dài, v́ một nền dân
chủ mới . Bác nói đại ư: Đất và Nước bao giờ cũng đi liền với nhau, muốn giải
phóng nước phải đưa đất cho dân. Bác nói khéo để nói lên việc phải cải cách
ruộng đất. Năm 1952, sau khi đi Trung quốc và Liên xô về, Bác chuẩn bị cho Hội
nghị cán bộ đầu năm 1953, quyết định cải cách ruộng đất. Trung quốc cử đoàn cố
vấn sang, bao gồm cố vấn công an, cố vấn tổ chức, cố vấn tuyên truyền. Đoàn cố
vấn cải cách ruộng đất do Kiều hiểu Quang làm trưởng đoàn. Kiều là phó bí thư
tỉnh ủy Quảng Tây. Họ muốn qua cải cách ruộng đất để chỉnh đốn lại Đảng ta. Thời
gian từ lúc tiến hành cải cách ruộng đất đến lúc dừng là 3 năm. Khi đó tôi
thường được dự họp Bộ chính trị do đó cũng biết một số việc. Đó là việc làm thí
điểm ở đồng bằng và chọn đồn điền Nguyễn thị Năm. Nguyễn thị Năm tức là Cát
Thành Long có một người con làm trung đoàn trưởng ở cục chính trị của Văn tiến
Dũng. Gia đ́nh bà trong dịp Tuần lễ vàng có hiến 100 lượng vàng. Bà c̣n tham gia
công tác của Hội phụ nữ từ năm 1945 đến 1953. Tôi chưa đến đó lần nào, các anh
Trường Chinh, Hoàng quốc Việt, Lê đức Thọ thường hay ăn cơm ở nhà bà. Gia đ́nh
Nguyễn thị Năm cũng giống như các gia đ́nh Đỗ đ́nh Thiện, Trịnh văn Bô giúp đỡ
nhiều cho Cách mạng. Chọn địa chủ Nguyễn thị Năm để làm trước là do có người
mách cho cố vấn Trung quốc. Họp bộ chính trị, Bác nói, Tôi đồng ư người có tội
th́ phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ
vào người đàn bà, mà người ấy lại cũng giúp đỡ cho Cách Mạng. Người Pháp nói
không nên đánh đàn bà, dù chỉ đánh bằng một cành hoa. Sau cố vấn Trung quốc là
La quư Ba đề nghị măi, Bác nói, Thôi tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là không
phải. Và họ cứ thế mà làm. Thuyết của họ là không dựa vào tổ chức cũ mà tổ chức
lại một số tổ chức khác của Đảng, họ phủ nhận hết các tổ chức khác như chính
quyền, các đoàn thể. Ai lănh đạo Cách mạng tháng tám thành công, ai lănh đạo
cuộc kháng chiến từ năm 1945 đến năm 1953?Thế mà họ thẳng tay bỏ hết, trong đó
có mấy ngàn người bị xử tử. Mục đích của họ không phải là cải cách ruộng đất mà
là đánh vào Đảng ta. May mà đến năm 1956 ta kịp dừng lại, nếu không th́ tan nát
hết. Sau này có những phiên họp Bộ chính trị tôi hay ngồi lại cùng Bác nói
chuyện. Có lần Bác trầm ngâm nói, Ḿnh đă nói để kháng chiến xong đă, mới tiến
hành cải cách ruộng đất, cứ ép măi. Mà nếu có làm cũng làm theo cách ta, chứ
không theo họ.
Đánh thuế công thương nghiệp, cải tạo tư sản là do Trung quốc đề ra. Hậu quả là
hơn một triệu người di cư vào Nam. Ta đổ tội cho Pháp, Mỹ, điều đó chỉ đúng phần
nào, c̣n là do ta làm vội, làm ẩu, đánh tràn hết. Không phải địa chủ mà phú
nông, thậm chí trung nông cũng đánh. Đảng viên nhiều người tốt cũng bị đánh. Kết
quả của những chính sách, cải cách lúc đó là như thế. Do đó khi Cách mạng tháng
tám thắng lợi , không khí vui mừng đến như thế, mà chiến thắng Điện biên Phủ
không khí không được vui bằng.
Tôi nhớ có chuyện thế này, đầu năm 1951, lúc đó tôi là Chánh văn pḥng của Tổng
bí thư nên được dự các cuộc họp của Thường vụ Trung ương. Trong một cuộc họp
Thường vụ Trung ương, Bác nói Stalin không được như thế đâu, chỉ v́ người ta cần
có một ngọn cờ mà đưa lên như thế. Nghĩa là Bác biết rơ Stalin. Người không sùng
bái, cũng như không sùng bái Mao trạch Đông. Nhiều lúc Bác cũng phải ngoại giao.
Cũng như Bác không thích ǵ Tưởng giới Thạch, nhưng Bác vẫn dịch cuốn Trung Quốc
mệnh vận do Tưởng viết, rồi đem biếu Trương phát Khuê. Tranh thủ để giữ vững
chính quyền, giảm được kẻ thù. Bác hết sức tinh trong nh́n nhận t́nh h́nh chính
trị. Nhưng người ít nói. Nhiều người không biết cứ tưởng Bác mơ hồ trong vấn đề
này khác. Chính trị Bác sắc sảo, nhưng Người rất ghét nói ba hoa. Bác bao giờ
cũng v́ dân, v́ nước, chứ không v́ cá nhân ḿnh. Nhiều người sắc sảo nhưng lại
v́ bản thân ḿnh nhiều, củng cố vị trí cá nhân ḿnh nhiều hơn. Nếu người lănh
đạo Cách mạng nào cũng được như Bác th́ không bao giờ chính quyền bị đổ, v́ Bác
lúc nào cũng có Đảng có dân, quan hệ với dân chặt chẽ, không bao giờ làm điều ǵ
v́ ḿnh, tất cả đều xuất phát v́ nhân dân. Tôi cho rằng hiểu được Bác không dễ,
làm như Bác càng khó hơn.
( ...)
T́m hiểu về Bác, tôi thấy Bác có 10 nỗi đau lớn ( 1)
Một là gia đ́nh tan nát. Mẹ và người em út mất sớm v́ nhà nghèo không đủ tiền
mua thuốc, không ai chăm sóc, trong lúc bố đi vắng. Cụ Nguyễn sinh Sắc bị thù
oán nên bị hại. Tính cụ ngay thẳng, phê phán thẳng thắn những người xấu và làm
theo ư ḿnh cho là phải. Bọn quan lại ghét cụ. Nhân có một người bị phạm tội đưa
đến, lệ ngày xưa trước khi xử án phải nọc người đó mấy chục roi trước. Chẳng may
người phạm tội bị bệnh từ trước nên sau khi bị đánh trả về một thời gian người
ta chết. Nhân việc này mới cách chức cụ và đày đi biệt xứ. C̣n ông anh và bà chị
Bác cũng bị tù đày, rồi sau mất sớm.
Nỗi đau thứ hai là, sau vụ chính biến Tưởng giới Thạch, Bác đi Liên xô. Trước đó
Bác phụ trách pḥng Đông Nam Á của Quốc tế Cộng sản. Bác có đi dự Đại hội 5 Quốc
tế Cộng sản nhưng không được bầu vào Ban chấp hành. Lần này sang, do cách hoạt
động của ḿnh, Bác bị Liên xô nghi ngờ là chưa đủ tiêu chuẩn Cộng sản. Sang Liên
xô Bác không được giao việc ǵ cả, không có chức vụ chính thức trong tổ chức
quốc tế. Bác xin về, họ không cho tiền. Sau Bác phải xin tiền bạn bè để về. Bác
về Xiêm t́m đến các gia đ́nh người Nghệ như gia đ́nh cụ Đặng thúc Hứa. Bác hoạt
động trong giới Việt kiều. Sau đó Bác có sang cả Lào để gây dựng cơ sở ở đó. Như
thế việc Bác về Xiêm là do Bác chủ động chứ không phải là do Quốc tế phân công.
Nghe tin ở nước nhà giải tán Thanh niên cách mạng đồng chí hội để lập Đảng Cộng
sản. Bác cho rằng chưa phải lúc. Bác cho rằng lúc đầu hăy tập hợp thanh niên và
giương cao ngọn cờ yêu nước đă. Có tổ chức Đảng Cộng sản chỉ là tổ chức bí mật
chứ chưa đưa Đảng Cộng sản ra và nói đấu tranh giai cấp vội, cứ nói đánh Tây cho
quần chúng dễ hiểu. Theo tôi v́ sao lại lập Đảng Cộng sản ? Chuyện này có lẽ bắt
nguồn từ Đảng Cộng sản Pháp. Đảng Cộng sản Pháp sợ liên lụy không dám bênh vực
phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa nữa. Sau Cách mạng tháng mười, hai
người Cộng sản Pháp sang Liên xô gặp Lênin là Frossard và Cachin. Frossard không
đồng ư với Lênin một số điểm cho nên về nước không được dùng mà chỉ có Cachin
được dùng. Những điều này tôi đoán lúc đầu Bác không biết, v́ lúc đó Bác đang là
một nhà cách mạng chân thành trong sáng, không nghĩ đến những điều phức tạp bên
trong. Đảng Cộng sản Pháp cho rằng Bác không lập ra Đảng Cộng sản mà chỉ tuyên
truyền chủ nghĩa yêu nước, lại phê phán Đảng Cộng sản Pháp khá nhiều, trên báo
chí và ở Đại Hội Quốc tế Cộng sản. Đảng Cộng sản Pháp có ư không tán thành Bác.
Năm 1923, Nguyễn văn Tạo là học sinh băi khóa ở Sài goon được sang Pháp học,
được kết nạp vào Đảng Cộng sản Pháp, rồi vào Trung ương ngay. Nguyễn ái Quốc
không được bầu vào Trung ương, Bác làm ở Ban thuộc địa, Đảng Cộng sản Pháp cử 3
người trong đoàn Pháp sang Đại hội 6 Quốc tế Cộng sản, trong đó có Nguyễn văn
Tạo. Nguyễn văn Tạo đề nghị là ở Đông Dương điều kiện đă chín muồi, đề nghị cho
thành lập Đảng Cộng sản. Sau đó mới tác động đến nhóm Bắc kỳ gồm Ngô gia Tự,
Nguyễn phong Sắc, Nguyễn đức Cảnh, là ba người hăng hái nhất lập ra Đông Dương
Cộng sản đảng, đề nghị giải tán Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội. Việc
đó chính là phê phán Nguyễn ái Quốc, hay gọi là sự sửa sai đối với Nguyễn ái
Quốc. Nhưng Bác vẫn im lặng t́m cách sửa sai việc đă rồi, v́ ba tổ chức t́m cách
chống nhau, gây chia rẽ. Sau Lê văn Lương nói với tôi là khi Bác về, Trịnh đ́nh
Cửu có hỏi Bác giấy ủy nhiệm của Quốc tế Cộng sản, v́ Bác nói là Quốc tế cử về.
Bác trả lời, Đồng chí thử tưởng tượng xem, nếu tôi mang trong người giấy ủy
nhiệm của Quốc tế Cộng sản, th́ liệu tôi có về được đến đây không? . Trong số
những người dự hội nghị hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản có Lê hồng Sơn (
Đông Dương Cộng sản đảng ). Có người nói không có Đông Dương Cộng sản đảng là
không đúng, Người sáng lập An Nam cộng sản đảng là Hà huy Giáp, nhưng anh theo
quan điểm công nông, đưa công nhân lên là chính, nên mới đưa Hạ bá Cang lên. Hạ
bá Cang, Nguyễn Thiệu, Châu văn Liêm được cử đi dự hội nghị hợp nhất. Nhưng Hạ
bá Cang bị bắt ở Hải Pḥng nên không dự được. Đại diện cho Bắc kỳ là Trịnh đ́nh
Cửu và Nguyễn đức Cảnh. Bác đưa ra Chính cương vắn tắt và điều lệ vắn tắt, thật
sự là Bác đă trở lại đường cách mạng với 3 mục tiêu: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc.
Mà dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc chính là tư tưởng của
Tôn Văn. Nhưng cách thực hiện khác hoàn toàn. Tôn Văn dùng cách mạng tư sản. Bác
là làm cách mạng nhân dân, cách mạng quần chúng rồi tiến dần lên cách mạng xă
hội chủ nghĩa thực sự. Bác nói là làm từ từ, dần dần. Tiến lên chủ nghĩa xă hội
ngay làm sao được với một nước có nền nông nghiệp lạc hậu. Mẫu của Stalin không
phải đâu cũng áp dụng như thế. Nhiều ông cách mạng c̣n trẻ, kinh nghiệm ít, cứ
tin theo sách, nhưng Bác không khờ như thế.
Năm 1931-32 ở Hương Cảng, Bác không có chức vụ ǵ, nhưng v́ sự nghiệp cách mạng
nên Bác vẫn làm. Bác gửi thư cho Quốc tế Cộng sản đề nghị giao việc, v́ thời
gian đó Bác chỉ làm nhiệm vụ của một hộp thư. Đường giao thông của ta với Pháp
bị vỡ do một anh thủy thủ Pháp bị bắt khai ra. Khi tôi ở trong tù th́ được thông
báo cho biết là Trần văn Giàu bị bắt khai ra đường day, nhưng sau này tôi hỏi
lịch sử Đảng Sài g̣n, họ nói có tài liệu chứng minh là không phải Trần văn Giàu
khai. Mật thám t́m được chỗ Bác ở và bắt Bác. Việc Bác được tha là nhờ luật sư
Loseby. Ông luật sư căi cho Bác là ông Stafford Cripps sau này là bộ trưởng dưới
thời Thủ tướng Churchill. Việc Bác bị bắt rồi lại được tha, Liên xô không hiểu,
họ nghi ngờ có điều ǵ phức tạp trong vụ án. Tại sao lănh tụ Cộng sản mà được đế
quốc tha yên ổn, cho nên trong vùng 4 năm họ không giao việc ǵ. Bác là nhân
viên thường ở Ban thuộc địa. Sau đó Bác nhận làm nghiên cứu sinh phó tiến sĩ ,
nhưng Người rất chán. Tại Đại hội lần thứ 7 của Quốc tế Cộng sản, Bác không có
cương vị ǵ cả. Đại hội lần thứ nhất của Đảng ta họp trước đó, bầu Bác là Ủy
viên dự khuyết, và c̣n ghi rơ là chỉ công tác ở nước ngoài. Chính v́ thế nên Bác
không có tên trong đoàn đại biểu của Đảng ta sang dự Đại hội lần thứ 7 của Quốc
tế Cộng sản. Đoàn đại biểu của Đảng Việt Nam chỉ có Nguyễn thị Minh Khai, Lê
hồng Phong. Sau khi xin việc măi không được, Bác xin về nước. Gần đây tôi có gặp
một nhà trí thức Việt Nam, người này có gặp một nhà trí thức Pháp, họ nói Bác
suưt bị hạ v́ những chuyện lôi thôi này. Ông lănh tụ Nhật Bản Nosaka Sando cũng
bị rầy rà. Những chuyện này Bác biết cả.
Thời gian này quan hệ với Trung quốc không gay go, v́ t́nh bạn của Bác với Chu
ân Lai, Lư phú Xuân, Diệp kiếm Anh..khi Bác ở Quảng Châu là thân thiết. Năm
1938-39 Chu ân Lai cũng giúp đỡ Bác nhiều. Chỉ có sau này với Mao trạch Đông là
Bác gặp khó khăn thôi.
Về việc Bác bị bắt năm 1942 ở Trung quốc, tôi được biết như sau: chuyện này do
Hoàng Điền, đại tá về hưu, người được dự các lớp huấn luyện ở Liễu Châu năm
1944, nói với tôi. Mục đích chuyến đi này của Bác là gặp Chu ân Lai để hỏi thăm
t́nh h́nh quốc tế. Lúc Bác bị bắt, trong người có tấm danh thiếp :Hồ chí Minh,
Việt Nam hoa kiều kư giả và một số giấy tờ khác. Hoàng Điền nói Trương bội Công
đứng đầu bọn t́nh báo của Trương phát Khuê đă bố trí Trần Báo ở với những người
cách mạng của ta thường đi qua để bắt. Tên này là em bà Ngô khỏa Duy, vợ ông Hồ
học Lăm, người đă biết rơ Bác Hồ. Bác bị hành hạ khổ sở. Nhưng nỗi đau nhất của
Bác là Người bị bắt trong lúc t́nh h́nh thế giới và trong nước có nhiều biến
động. Nếu ở nhà lúc đó không có anh Trường Chinh th́ thật sự chúng ta không có
ngày nay đâu. Tả lại phần nào nỗi đau của ḿnh trong những ngày bị bắt giữ, Bác
có viết bài thơ, Trên đời ngàn vạn điều cay đắng. Cay đắng chi bằng mất tự
do.Càng cay đắng hơn là Bác bị bắt trong lúc Cách Mạng rất cần Người.
Nỗi đau thứ tư là sau năm 1945, Liên xô, Trung quốc không công nhận ta. Đảng
Cộng sản Pháp cũng nghi ngờ.
Nỗi đau thứ năm là 1950-52, Mao trạch Đông và Stalin gọi Bác sang phê phán gay
gắt, buộc phải thay đổi đường lối, dẫn ta đến sai lầm trong cải cách ruộng đất.
Tuy nhiên Trung quốc giúp ta chỉnh lại quân đội có phần đúng. Mục đích của họ là
sửa lại cả quân sự, chính trị, tổ chức, cách dùng người. Nhân nói về chính sách
dùng người của Bác, tôi muốn kể chuyện này. Có lần trong một cuộc hội nghị về
công tác tổ chức, Lư Ban nói, Đối với con cán bộ khi kết nạp vào Đảng không cần
phải thời gian dự bị, mà được chính thức ngay. Bác nói ngay, Chú nói như thế
không đúng. Đối với cách mạng phải xem cụ thể người ấy như thế nào. V́ có chuyện
hổ phụ sinh khuyển tử, tức là hổ đẻ ra chó. Phan bá Ngọc là con của Phan đ́nh
Phùng đă đưa mật thám bắt Phan bội Châu. Nhưng cũng có những địa chủ lớn như
Bành Bái, địa chủ nổi tiếng ở tỉnh Quảng Đông lại là người tiến bộ, Đảng Cộng
sản coi là anh hùng. Cho nên không được máy móc, không được xem nguồn gốc xuất
thân, lư lịch làm quan trọng.
Họ sửa khá nhiều nên Bác đau long. Bao nhiêu nhân sĩ Bác lôi kéo tranh thủ, sau
đó phải gạt hết, có những người c̣n bị đấu tố nữa.
Nỗi đau thứ sáu là Bác không ngờ Liên xô và Trung quốc lại xung đột, mâu thuẫn
đến gay gắt như thế. Bác nói phe xă hội chủ nghĩa do Liên xô và Trung quốc lănh
đạo. Nhưng Liên xô và Trung quốc cùng lănh đạo thế nào được. Một nước chỉ có một
mặt trời. Mao trạch Đông là mặt trời hay Stalin là mặt trời đây. Liên xô hay
Trung quốc đứng đầu lănh đạo ? Chỉ có một mà thôi. Hai bên xung dột nên bên nào
cũng muốn lôi kéo Bác về phía ḿnh. Bác bị giằng xé trong suốt những năm cuối
của cuộc đời.
Nỗi đau thứ bảy là sự bất ḥa giữa mấy người lănh đạo của ta. Không phải mọi
việc đều êm đẹp cả. Họ nhất trí với nhau về quan điểm đánh Mỹ, nhưng quan điểm
quốc tế không thống nhất, về quan hệ cá nhân với nhau không thuận lợi. Sau này
Bác bảo tôi viết bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. .
Ư Bác muốn nói mấy ông này. Bài đó tôi viết Bác sửa lại nhiều. Sau Bác nói anh
Tố Hữu cùng sửa nữa.Tôi được biết từ năm 1966, cứ mỗi chiều thứ bảy, Bác lại làm
cơm và nói, Mấy chú cứ đến đây ăn cơm vui vẻ với nhau, có ǵ khúc mắc cứ nói hết
ra. Không nên để bụng .Anh Nguyễn chí Thanh làm thư kư cho những cuộc họp đó cho
đến khi anh đi vào Nam. Sau anh Lê văn Lương nói lại với tôi là họ cứ đến ăn
cơm, chén hết rồi họ về, chẳng ai nói với ai điều ǵ. Nếu không biết việc này
th́ không hiểu hết tại sao trong di chúc Bác lại dặn phải đoàn kết toàn Đảng, từ
Trung ương đến địa phương. Trên mà đă đoàn kết rồi th́ cần ǵ nói đến cơ sở nữa.
Trên đoàn kết mà dưới không th́ lôi thôi to, các ông trị cho chết. Chính v́ thế
mà Bác rất buồn. Có thể có một vài hiện tượng, có đồng chí nào muốn vượt Bác.
Bác biết hết nhưng Bác không quan tâm.
Nỗi đau thứ năm là t́nh h́nh trong nước và thế giới trước khi Bác qua đời đều
căng thẳng, nên đầu óc Bác không được thư thái. Cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo
dài, nhân dân ta hy sinh nhiều của, nhiều người, Bác rất đau long. Tuy Bác nói
là trường kỳ kháng chiến nhưng thực sự Bác không muốn cuộc chiến tranh phải kéo
dài. Từ đầu đến cuối, Bác không muốn có chiến tranh. Cho nên mới có cuộc ḥa
hoăn với Pháp. Đối với Mỹ cũng thế, Bác muốn tranh thủ, nhưng không được mới
phải đánh. Cộng thêm những năm tháng ốm đau kéo dài ( trên 3 năm ), có lúc Người
cáu gắt cũng v́ lẽ đó. Tất cả những nỗi đau này Bác không thố lộ cùng ai, kể cả
với anh Lê Duẩn, anh Trường Chinh. Nếu chúng ta không hiểu những nỗi đau của
Bác, không hiểu được sự chín chắn, đúng đắn của Bác trong chính trị th́ ta sẽ
giáo điều, nói không sát.
Tổng kết lại, cho đến nay Đảng ta có 4 thắng lợi lớn và 4 thất bại. Bốn thắng
lợi th́ đă rơ: thứ nhất là Tổng khởi nghĩa, thứ hai là kháng chiến chống Pháp,
thứ ba là kháng chiến chống Mỹ, thắng lợi thứ tư là thực hiện công cuộc đổi mới
đang thắng lợi dần dần. Thắng lợi trong công cuộc đổi mới tuy Bác không c̣n,
nhưng đường lối độc lập tự chủ, tức là trở lại với chính ḿnh, trở lại với tư
tưởng Hồ chí Minh mới đổi mới được. Cứ để như cũ chắc hôm nay nước đổ rồi. Bốn
thắng lợi đều do tư tưởng độc lập tự chủ, do tư tưởng Hồ chí Minh quyết định.
Bốn lần thất bại là do học theo Trung quốc, học theo Liên xô. Đó là xông thẳng
tới chính quyền mà là chính quyền công nông thôi, đó là cải cách ruộng đất, đấu
địa chủ. Bác không phải là không nói tới đấu tranh giai cấp. Cụ nói đấu tranh
giai cấp phụ thuộc vào đấu tranh dân tộc ( ..)
Sai lầm lớn nhất của chủ nghĩa xă hội là cứ xông thẳng tới chính quyền. Và khi
đă nắm được chính quyền rồi, đáng lẽ phải thực hiện dân chủ th́ lại nhấn mạnh
chuyên chính. Cái sai nữa là, sau khi giành được chính quyền rồi th́ thực hiện
công hữu ngay lập tức, công hữu cực đoan, tức là vô sản hóa hơn cả tư sản. Mọi
người không ai có ǵ cả, chỉ là người làm công ăn lương, nên động lực mới yếu
đi. Marx dự báo khoa học có cái đúng cái trật. Nhưng về xu thế lịch sử là Marx
nói đúng. Chủ nghĩa tư bản không thể tồn tại dài lâu mà nó phải thay thế bằng
công bằng hơn, cuối cùng là chế độ công hữu. Hiện tại không phải là công hữu hết
mà chỉ cần xây dựng một nền kinh tế hợp tác là đủ. Chúng ta chưa dám nói khác.
Người cầm quyền lại càng sợ nói khác đi. |