Nguyên thời mạt của nhà Tây-Hán, Thiên-sơn lão tiên dạy trước sau bẩy người đệ
tử đều văn võ kiêm toàn. Bẩy người cùng nhau thề đem sức ra giúp dân, mưu cầu hạnh
phúc. Họ ứng thí, thành đạt, cùng giữ chức thái thú, thứ sử bẩy quận liên tiếp.
Nhưng bấy giờ vua Hán u mê tin dùng Vương Mãng, khiến giặc dã khắp nơi nổi dậy.
Thiên-Sơn lão tiên triệu tập cả Thiên-sơn thất hùng lại, rồi ban cho thanh kiếm,
với bốn giòng chữ trên.
Vừa đúng lúc đó, Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán. Thiên-sơn thất hùng cùng khởi
binh lập ra nước Thục. Người đứng đầu Thiên-sơn thất hùng tên Công-tôn Thuật được
tôn làm vua. Thanh kiếm Thiên-Sơn lão tiên ban cho, trở thành Thượng-phương bảo
kiếm. Khi Công-tôn Thuật băng, thanh kiếm này lọt về tay con thứ nhì tên
Công-tôn Thi. Công-tôn Thi hàng Hán. Sau này Thi lại phản Hán, bị Vương Bá giết
chết, thanh kiếm về tay Vương Bá. Trong trận đánh bên bờ sông Bồ-lăng, Bắc-bình
vương Đào Kỳ dùng chiêu võ Cửu-chân, tay không đoạt thanh kiếm này trên tay Vương
Bá.
Khi Đoàn Huy sang Đại-Việt, hoàng đế Đại-lý ân cần dặn y bằng mọi cách tìm cho
ra thanh kiếm này. Bởi, hiện họ Đoàn cai trị nước Đại-lý được là nhờ hai phái
Thiên-sơn, Tượng-quận hợp lại. Nhưng có nhiều chi phái của Thiên-sơn, vẫn không
phục. Họ cương quyết chỉ tuân phục người nào tìm được tín vật của Thiên-sơn lão
tiên ban cho Công-tôn Thuật làm thượng phương bảo kiếm.
Đoàn Huy nhìn thấy thanh gươm, y run run, hướng vào đệ tử phái Thiên-tượng hô
lớn:
Toàn thể đệ tử phái Thiên-tượng quỳ xuống!
Mấy ngàn đệ tử Đại-lý nghe tôn sư của phái hô, họ không hiểu gì, nhưng cũng quỳ
gối xuống. Đoàn Huy tay tiếp bọc nhiễu đỏ hô lớn:
Đệ tử kính cẩn cung nghinh thánh lệnh của Thiên-sơn lão tiên.
Y tâu với Thuận-thiên hoàng đế:
Hôm trước, anh em hạ thần mười phần chết, mới có phần sống. Nhờ ân đức của hoàng
thượng thoát khỏi hiểm nguy. Hôm nay lại được bệ hạ ban cho di vật của lão tiên.
Thần xin vì bệ hạ, đi khắp nới tuyên bố thánh đức.
Nói rồi y quỳ gối lạy tạ. Thuận-thiên hoàng đế phất tay, một kình lực nhu hoà đỡ
Đoàn Huy dậy. Ngài phán:
Hôm nay, chúng ta tụ họp ở đây, vì cùng là con cháu vua Trưng cả. Đoàn huynh
không nên đa lễ.
Ngài tiến tới trước mặt Kim-Sinh, tôn sư phái Cửu-long:
Kim huynh. Dù Chân-lạp, dù Chiêm-thành, dù Lão-qua, dù Ngô-Việt, dù Đại-lý, dù
Đại-Việt, chúng ta đều là giòng giống Việt-thường, con cháu vua Hùng cả. Xưa vua
Hùng phong cho con thứ hai mươi mốt đến ba mươi theo dấu chim nhạn vào tận cùng
phía Nam lập ấp qui dân. Nay thành nước Chân-lạp. Hôm nay Kim huynh cùng chư
huynh đệ phái Cửu-long về đây lễ Bắc-bình vương, đủ tỏ anh em Cửu-long không
quên được nguồn gốc.
Ngài cầm lấy hộp bọc nhiễu điều trên chiếc mâm do thái giám đội, mở ta. Bên
trong lại một thanh kiếm nữa. Thanh kiếm này nhỏ, dài hơn thanh kiếm của Thiên-Sơn
lão tiên một chút. Kim-Sinh liếc nhìn qua, thấy trên bao kiếm có khắc chữ
Cửu-chân vương cạnh đó khắc cành hoa đào.
Mắt Kim-Sinh muốn hoa lên. Vì trong mật dụ của phái Cửu-long chép rằng, tỗ xưa
kia của phái là Đào Thế-Kiệt, sinh ra Bắc-bình vương Đào Kỳ. Lúc sinh thời, ngài
dùng một thanh kiếm đánh Đông dẹp Bắc. Khi thành đại nghiệp, ngài được tôn lên
ngôi Cửu-chân vương. Sau ngài vui mừng, cười mà qui tiên. Thanh kiếm đó về Đô
Dương, người kế tục ngài trấn nhậm Cửu-chân. Sau khi Đô Dương tử trận, thanh kiếm
này tuyệt tích.
Kim Sinh nghĩ:
Thanh kiếm này vốn là linh vật của Đại-Việt, mà nay hoàng đế ban cho phái
Cửu-long. Có nghĩa ngài công nhận nước Chân-lạp vẫn thuộc giòng giống Việt.
Kim Sinh quỳ gối kính cẩn tiếp thanh kiếm. Khác với khi Đoàn Huy hành lễ,
Thuận-thiên hoàng đế đỡ dậy không cho quỳ. Ngược lại ngài để Kim Sinh hành lễ. Đứng
cạnh ngài có các thái tử. Các thái tử hiểu rằng ngụ ý phụ hoàng muốn nói: Chân-lạp
vốn đất cũ, cùng giòng giống Việt-thường. Sau này ai được nối ngôi phải tìm cách
thống nhất làm một.
Thuận-thiên hoàng đế đến trước Chế Ma-Thanh, ngài cầm lấy tay y, bằng giọng ấm
áp, ngài phán:
Xưa Quốc-tổ, Quốc mẫu sinh trăm con. Con lớn nhất được phong làm vua. Còn lại
chín mươi chín người, mỗi người được phong một nơi. Hoàng tử thứ ba mươi mốt đến
bốn mươi vượt núi vào Nam, lập ra nước Chiêm-thành. Chế huynh đệ, người nhỏ hơn
ta đến mười tuổi, thì ta là anh, người là em. Một giải đất Chiêm-thành, dài từ
Nghệ-an vào đến Chân-lạp, ta giao cho người. Chân-lạp vốn nhiều vàng, lắm ngọc,
sông sâu, núi cao, biển rộng, người hãy đem hết tài năng ra phò tá huynh trưởng,
để ghi danh thiên cổ. Bất cứ huynh đệ làm việc gì liên quan đến Đại-việt, Chân-lạp,
Lão-qua, cũng đừng quên rằng chúng ta cùng một tổ.
Ai nghe Thuận-thiên hoàng đế nói những lời đó đều tưởng những câu khuyên nhủ
thông thường. Nhưng Chế Ma-Thanh đã từng hội họp với Triệu Thành tại Hồng-hương
mật cốc. Y được phong Kiểm hiệu thái sư. Tĩnh hải tiết độ sứ. Đồng bình chương
sự. Suy thành thuận hoá công thần. Chiêm-thành quận vương. Thực ấp vạn hộ. Thực
phong ngũ thiên hộ. Cho nên khi nghe Thuận-thiên hoàng đế nhắn nhủ, y rùng mình,
cảm thấy như mưu kế đã bại lộ.
Thuận-thiên hoàng đế, trao cho y một hộp sơn son thiếp vàng. Y mở hộp ra, bất
giác mồ hôi y xuất cùng mình, chân tay y bải hoải. Vì trong hộp có mười thoi
vàng lớn, bốn đôi vòng đeo tay bằng hồng ngọc. Một cái vòng đeo cổ bằng vàng,
nạm ba mươi sáu hạt kim cương lớn. Đây chính là lễ vật y dâng cho Triệu Thành.
Trong hộp còn một phong giấy. Y mở ra coi, chính là tờ biểu, y gửi Triệu Thành
tâu về Tống đế, trình bày mưu kế của y lật anh là Chế Ma-Huy, rồi đem quân đánh
vào phía Nam Đại-việt. Y không hiểu sao, nay lại nằm trong cái quả này.
Kinh hoàng y nghĩ:
Mình họp cùng Triệu Thành bí mật đến thần không biết, quỷ không hay. Mà sao
Khu-mật viện nhà Lý lại biết tỏ tường. Vàng, ngọc, cùng tờ biểu này, chính tay
Triệu Thành cất giữ, làm sao lọt vào tay Lý Công-Uẩn? Chỉ nguyên tờ biểu này, y
có thể đem mình ra chặt đầu. Hoặc nếu y gửi cho hoàng huynh mình thì toàn gia
mình đã bị tru lục rồi.
Bất giác chân tay y bủn rủn cả ra. Y quỳ gối rập đầu binh binh liền tám lần:
Biên thần Nam phương tạ hồng ân của hoàng đế bệ hạ. Ân đức của bệ hạ rộng như
trời như biển. Hạ thần dù thịt nát xương tan cũng không đủ đền ơn bệ hạ.
Nguyên những thư tín, vàng ngọc của Chế Ma-Thanh dâng cho Triệu Thành. Trong lần
từ Thiên-trường về Thăng-long, y đã bị Thanh-Mai sai tráng sĩ Thiên-trường lặn
xuống sông, đột nhập thuyền ăn cắp về. Khai-quốc vương trình với Thuận-thiên
hoàng đế, đem tặng lại cho y, để suốt đời y phải cúi đầu tuân lệnh Khu-mật viện
Đại-Việt.
Ngài đến trước Phủ-Vạn:
Phủ hoàng thúc. Hiện giờ bên Lão-qua, do ấu quân cai trị. Quyền hành đều nằm
trong tay hoàng thúc. Tiếng rằng hoàng thúc ngồi dưới một người, mà thực ra ngồi
trên trăm họ. Hoàng thúc tuy chưa làm vua, mà thực ra uy quyền đã hơn vua. Xưa
Quốc-tổ cho các hoàng tử thứ bốn mươi mốt tới năm mươi vượt núi về phương Tây
qui dân lập ấp. Nay thành Lão-qua. Lão-qua với Đại-việt cùng giòng giống vua
Hùng cả. Hôm nay hoàng thúc tới đây dự lễ để tỏ lòng không quên nguồn gốc. Thực
quý vô cùng. Ta có món quà tặng hoàng thúc.
Ngài mở lồng bàn. Trên cái mâm, có hộp lớn sơn son thiếp vàng, ngoài đề chữ
Hoàng-thúc Lão-qua. Phủ-Vạn mở ra. Bên trong có một tượng Phật bằng ngọc xanh
biếc, lớn bằng cổ tay. Cạnh đó mười thỏi vàng với con voi bằng vàng, trên nạm
hơn trăm hạt kim cương. Đây chính là lễ vật y gửi Triệu Thành về dâng cho vua
Tống. Trong hộp còn trục giấy, cuộn tờ biểu y dâng vua Tống trình bầy kế hoạch
lật đổ cháu, chiếm ngôi vua, rồi đem quân đánh vào vùng Thanh-hóa của Đại-việt.
Y kinh hoàng, chân tay run lẩy bẩy, đầu gối nhũn ra. Y quỳ xuống rập đầu liền
tám lần:
Hạ thần thọ hoàng ân trọng hơn núi. Kể từ nay, thần xin làm thân trâu ngựa theo
hầu hoàng đế bệ hạ.
Đợi cho Phủ-Vạn lạy xong, Thuận-thiên hoàng đế đến bên Trần Uy. Ngài nắm lấy tay
ông, ân cần nói:
Khi xua Quốc tổ cho các hoàng tử thứ năm mươi mốt tới sáu mươi đến vùng Nam-hải
phá rừng, lập ấp qui dân. Đời vua An-Dương, vua Trưng vẫn là Nam-hải. Ngài lại
sai hoàng tử thứ sáu mươi mốt tới bẩy mươi lập ấp qui dân. Đời vua An-dương vua
Trưng là Quế-lâm. Hơn trăm năm trước, anh hùng Quế-lâm, Nam-hải hợp sức với nhau
lập ra nước Ngô-việt. Gần đây Ngô-việt bị Tống diệt. Tuy vậy, dân Ngô-việt vẫn
không quên nguồn gốc mình gốc con cháu vua Hùng. Hôm nay Trần huynh cùng Tiền
thái tử về đây lễ anh hùng thời vua Trưng. Mong rằng sau lễ trẫm sẽ được gặp
Trần huynh để đàm đạo.
Sau khi tặng quà hết tất cả mười sáu đại tôn sư, hoàng-đế hướng xuống quần hùng
nói lớn:
Hôm nay giỗ một vị đại vương, ngài còn là một vị đại tôn sư võ học Lĩnh-nam.
Trẫm...
Một đoàn người ngựa rầm rập tiến vào khu lễ đài. Đi đầu có một tráng sĩ cầm lá
cờ lớn, trên thêu chữ Đại-tống Bình-nam vương một lá cờ khác có chữ Thái-úy,
tổng đốc binh mã, chưởng quản Khu-mật viện. Tiếp theo hơn mười người cỡi ngựa đi
vào.
Thanh-Mai nói với Mỹ-Linh:
Bọn Triệu Thành.
Triệu Thành cỡi ngựa đi đầu, tiếp theo, bọn Vương Duy-Chính, Dư Tĩnh,
Minh-Thiên, Đông-Sơn lão nhân, Địch Thanh, Triệu Anh, Triệu Huy, Quách Quỳ.
Sư thái Tịnh-Tuệ, nhân danh ban tổ chức cùng hai nữ đệ tử Ngô Thuần-Trúc, Hàn
Diệu-Chi tiến ra thi lễ:
Bần ni, chưởng môn phái Mê-linh, được võ lâm Đại-việt ủy cho tổ chức giỗ
Bắc-bình vương năm nay. Bần ni xin các vị cho biết, các vị thuộc môn phái nào?
Dư Tĩnh đáp:
Chúng tôi không thuộc phái võ cũng như bang hội nào của Giao-chỉ cả. Chúng tôi
là sứ đoàn Thiên-triều qua quận Giao-chỉ.
Nói rồi y giới thiệu từng người trong bọn. Cao nhất Triệu Thành, thấp nhất Quách
Quỳ.
Ngô Thuần-Trúc lễ phép đáp:
Thì ra các vị thuộc sứ đoàn nhà Đại-tống đấy. Nhưng thưa Triệu vương gia, đây là
nơi võ lâm Đại-việt tổ chức giỗ tổ. Giỗ tổ chia ra làm năm ngày. Ngày thứ nhất
dành cho võ lâm anh hùng. Ngày thứ nhì trở đi đành cho dân chúng. Các vị không
phải võ lâm Đại-Việt, cũng không phải con dân Đại-Việt, các vị không thể vào
đây.
Vương Duy-Chính quát lớn:
Khắp thiên hạ, đâu cũng thuộc đất của thiên tử. Giao-chỉ là một quận của nhà
Đại-tống, tức đất của thiên tử. Chúa ta lĩnh mệnh làm sứ thần, thay mặt thiên tử
kinh lý Giao-chỉ, mà các người dám cấm ư?
Ngô Thuần-Trúc vẫn ôn tồn:
Vương chuyển-vận-sứ nói sai rồi. Từ cổ, vua Đế-Minh đã cắt đất chia thiên hạ làm
hai. Từ núi Ngũ-lĩnh về Bắc thuộc Trung-quốc. Từ Ngũ-lĩnh về Nam thuộc Văn-lang.
Cương giới đã định, phong tục, luật pháp khác nhau. Có lý đâu đất Đại-việt chúng
tôi thành một quận của Trung-quốc?
Vương Duy-Chính đưa mắt cho Triệu Thành, rồi nói:
Nếu cứ biện luận theo kiểu này, không biết bao giờ cho dứt. Bây giờ chúng tôi
lấy tư cách người võ lâm, đến đây dự lễ tiền nhân võ lâm có được không? Xưa kia
Đào Kỳ được phong Hán-trung vương triều Hán. Vương gia của tôi là Bình-nam vương
triều Tống. Người sau lễ người trước sự thường. Không lẽ các vị không cho?
Hàn Diệu-Chi gật đầu:
Nếu tiền bối nói thế thì được. Anh hùng vốn của chung thiên hạ. Ai cũng có quyền
vào lễ. Nào mời các vị.
Vương Duy-Chính tự hào tiến sĩ xuất thân, ứng đáp nhanh, mà y cảm thấy thua kém
một bước. Y muốn nhân danh võ lâm vào lễ, Diệu-Chi gọi ngay y bằng danh tự tiền
bối, không còn gọi y là Chuyển-vận-sứ nữa. Y đành cùng Triệu Thành theo thầy trò
Diệu-Chi vào lễ đài.
Diệu-Chi cầm loa xướng ngôn:
Kính thưa chư vị anh hùng võ lâm Đại-việt. Đặc biệt giỗ Bắc-bình vương năm nay
có nhiều cao nhân tiền bối võ lâm Trung-quốc tới lễ. Vị cao tăng mặc áo cà sa
đại hồng là Minh-Thiên đại sư, thủ toạ Đạt-Ma đường phái Thiếu-Lâm.
Nàng chỉ vài Đông-Sơn lão nhân:
Vị lão nhân đây là một trong Hoa-sơn tứ đại thần kiếm Đông-Sơn lão nhân. Vị
trung niên này là Dư Tĩnh, đệ tử của người. Thiếu niên đi cạnh người là võ trạng
nguyên Địch Thanh.
Nàng chỉ vào Triệu-Thành:
Vị này là đại hiệp Triệu Thành, cao đồ của Minh-Thiên đại sư. Hai vị đi cạnh
Triệu đại hiệp là hai trong Tung-sơn tam kiệt tên Triệu Anh, Triệu Huy.
Nàng cố ý hạ Triệu Thành xuống sau Địch Thanh, coi như không cần biết đến cái
tước Bình-nam vương của y. Nàng giới thiệu tiếp:
Vị này họ Vương tên Duy-Chính thuộc phái Võ-đang.
Nàng xướng tiếp:
Tấu nhạc.
Nhạc tấu vang lừng. Bất đắc dĩ Triệu Thành phải lên đài đốt hương. Nhưng y chỉ
vái có một vái, rồi đứng sang bên cạnh nhường chỗ cho tùy tùng lễ. Đợi cho bọn
tùy tùng lễ xong, y cất tiếng hỏi:
Trong buổi lễ hôm nay, ai có ngôi vị cao nhất?
Nhật-Hồ lão nhân bước ra:
Chính lão phu. Không biết đại hiệp có điều chi thắc mắc?
Việc Nhật-Hồ lão nhân mới tái xuất giang hồ, Triệu Thành chưa biết. Vì vậy y
không rõ lão là ai. Y chỉ vào cây cờ bay phất phới, trên có hàng chữ:
Đại-hội anh hùng võ lâm Đại-việt
Phải triệt hạ cây cờ này ngay tức khắc. Cây cờ mang giòng chữ phản nghịch như
thế kia, mà để nguyên được ư?
Nhật-Hồ lão nhân hỏi:
Xin Triệu đại hiệp cho biết thế nào là phản nghịch?
Triệu Thành dõng dạc nói lớn:
Các người đây đều thuộc con dân Thiên-tử. Đất của các người chỉ có một quận
Giao-chỉ, không hơn, không kém. Thế nhưng các người tiếm xưng Đại-việt. Như vậy
không phản nghịch ư?
Phạm Trạch từ dưới đài nhảy lên, trả lời thay cho sư phụ:
Triệu đại hiệp tới đây là khách, chúng tôi lịch sự, để các vị lên đài lễ tổ, đó
là một điều thân thiện. Các vị chỉ lễ có một lễ, thực vô phép, không thể tha
thứ. Đã vậy còn hống hách với chúng tôi. Bộ các vị chê gươm Đại-việt không sắc
ư?
Dư Tĩnh quát lớn:
Các người định đùng số đông áp chế chúng ta ư? Ta đến đây là khách. Các người là
chủ. Lớn tiếng đe dọa khách phải chăng chủ trương của võ đạo Giao-chỉ? A ha, hậu
thế của Đào Kỳ, Phương-Dung không ngờ hèn qúa!
Tại khán đài phái Đông-a, Tôn Đản cười khoan khóai:
Bọn Triệu Thành sắp đánh nhau với bọn Nhật-Hồ rồi. Kể ra bọn Nhật-Hồ tuy ác độc,
tà ma, ngoại đạo, tham quyền, ngu dốt, nhưng được cái chúng yêu nước. Hôm trước
mình bắt được Nhật-Hồ lão nhân, Vũ Nhất-Trụ, Hoàng Văn, Đặng Trường, Nguyễn Chí.
Chỉ cần tung mẻ lưới, vây Ngọc-lan đình, có vồ, giam trọn bọn trưởng lão
Hồng-thiết giáo, coi như dẹp yên cái mầm mống kinh tởm này. Nhưng anh cả cho
rằng diệt bọn Hồng-thiết như vậy, uổng mất lòng yêu nước của chúng. Cần thả
Nhật-Hồ lão nhân ra dùng lão cùng bọn giáo chúng đối phó với bọn Tống. Anh cả
bầy kế cho Nhật-Hồ lão nhân ngồi chủ vị hôm nay, để lão phải đứng ra đối đầu với
bọn Triệu Thành. Ta cứ việc ôm gối ngồi cao. |