Thuận Thiên Di Sử                                                                            Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ
 
HỒI THỨ BỐN MƯƠI TÁM

Thiên hạ qui tâm

 

Hoàng Liên hỏi Triệu Thành:
Vương gia. Nhược bằng Lư Công-Uẩn bất chấp luật lệ vơ lâm, y cho thiết kị bao vây, bắt hết anh hùng vơ chặt đầu th́ hỏng bét. Vương gia thử nghĩ coi, tỷ như bên Đại-tống, chỉ cần một người nào đó là mối lo ngại, đe dọa cho triều đ́nh, ắt vương gia đă đem quân bắt cả nhà y chặt đầu. Nay bên Đại-Việt, Lư Công-Uẩn không lẽ không làm được việc đó?
Nùng Dân-Phú cũng nói:
Huống hồ trước đây Lê Ngọa-triều dùng h́nh pháp cai trị dân. Y muốn giết ai th́ giết, mổ bụng đàn bà đẻ làm tṛ vui, chặt dao vào đầu tăng ni để tiêu khiển, đốt người trên cột đồng lấy làm khoan khóai, trói người nh́n nước lên cho chết ngộp giải khuyây. Ngược lại Công-Uẩn là đệ tử yêu của Bồ-tát Vạn-Hành, con nuôi Bồ-tát Lư Khánh-Vân. Y được nuôi dạy trong núi Tiêu-sơn từ nhỏ. Tính t́nh y cẩn trọng, văn mô, vũ lược, vơ công không thua Đại-Việt ngũ long. Khi lên ngôi vua, y đại xá cho cả nước, nhà tù trống rỗng. Kế đó y cho triệt bỏ hết h́nh phạt khắc nghiệt đo luật vua Đinh để lại như chặt tay, cho cọp ăn thịt, nấu vạc dầu. Trong mười bẩy năm trị v́, không có một án tử h́nh nào. Y cho ai có việc oan ức, đến trước điện Càn-nguyên đánh trống khiếu nại. Đích thân y sẽ xử vụ kiện đó. V́ vậy dân chúng ca tụng y đức không kém vua Hùng, vua Trưng.
Đỗ Xích-Thập thở dài:
Tháng hai năm Thuận-thiên nguyên niên (1010) y về thăm châu Cổ-pháp là cố hương. Y đem lụa phát cho các bậc kỳ lăo. Rồi y ban chiếu rằng trong toàn quốc, bất kỳ nam, nữ, ai tới tuổi sáu mươi đều được ban lụa. Ai đến tuổi bẩy mươi, sẽ được triều đ́nh ban lụa may áo đỏ, ngồi trên bục cao, con cháu phải làm lễ tế sống. Tháng bẩy, y xuất khố hai vạn quan tiền, lập tám cảnh chùa.
Triệu Thành đưa con mắt nghiêm khắc nh́n Vương Duy-Chính. Vương kinh sợ run người lên. Thành hỏi:
Vương chuyển vận sứ, những tin này người có biết không? Tại sao trong các biểu tâu tŕnh về t́nh h́nh Giao-chỉ không nói tới?
Vương Duy-Chính lạnh người, y nói lắp bắp:
Khải tấu... vương... vương gia. Những truyện nhỏ nhặt đó, thần biết hết, nhưng không tâu về triều.
Sự thực không phải Vương-duy-Chính bỏ qua những chi tiết đó. Y từ chân đậu tiến sĩ xuất thân, nên những việc làm của vua Lư Thái-tổ để thu phục nhân tâm, y cố t́nh che dấu, có như vậy triều Tống mới quyết tâm theo đề nghị của y, xua quân chiếm Đại-việt. Y nghĩ, với tài kiêm văn vơ của y, nếu triều đ́nh đánh Đại-Việt, y sẽ được cầm quân. Chiếm xong Đại-Việt, th́ cái tước công, tước vương khó chạy khỏi tay. Cho nên y luôn tâu về triều những xấu xa của Đại-việt. Do thế Triệu Thành cứ tưởng vua Lư Thái-tổ là người đi ở chăn trâu cho chùa, chứ không có tài có đức ǵ.
Qua lời thuật của Hoàng Liên, Đỗ Xích-Thập, Hoàng Văn hôm nay, trong ḷng y đă nảy ra những khâm phục đối với vua Lư.
 Y hỏi Hoàng Văn:
Hoàng hầu, người đem tất cả những công việc Lư Công-Uẩn đă làm từ khi lên ngôi vua đến giờ thuật cho cô gia nghe. Tám ngôi chùa đó là chùa nào?
Hoàng-Văn không giám dấu diếm:
Trong thành Thăng-long dựng tám cảnh chùa. Sau đó c̣n xay thêm chùa Hưng-thiên, Vạn-tuế. Ngoài thành dựng chùa Thắng-nghiêm, Thiên-vương, Cẩm-uy, Long-hưng, Thánh-thọ, Thiên-quang, Thiên-đức. Đă hết đâu, các chùa đổ nát, y xuất công nho tu bổ hết.
Triệu Thành gật đầu:
Như vậy Lư Công-Uẩn có tài đế vương. Bên nhà Đại-tống ta dùng Nho để lập kỷ cương cai trị thiên hạ. Bên Đại-Việt, Phật giáo ăn sâu vào quần chúng, y xuất thân đệ tử một cao tăng, con nuôi một cao tăng, đó là một điều y thu được nhân tâm. Mới lên ngôi, bỏ h́nh pháp hà khắc cho dân, tức đem ḷng nhân thay bạo tàn. Hai điều y thu phục được nhân tâm. Hành động này y bắt chước vua Cao-tổ nhà Hán. Khi Cao-tổ đánh chiếm Hàm-dương, người cho băi bỏ luật Tần Thủy-Hoàng, ban ước pháp ba chương, dân chúng các nơi hướng về ngài hết. Y lại giữ nguyên họ Lư của nghiă phụ, đó tỏ ra người đại hiếu, đại nghĩa. Người theo Nho, theo Phật đều khâm phục y. Ba điều y thu được nhân tâm. Y bỏ tiền xây chùa, tu bổ chùa, để dân chúng các nơi có chỗ lễ bái, đến chùa nghe kinh, tức nhiên giữ đạo đức. Đó là cách dạy dân của đế vương.
Cũng năm này, tháng bẩy, y xá thuế ba năm cho cả nước. Tha thuế cho người c̣n nợ mấy năm trước. Tháng tám độ cho hơn ngàn người làm sư, phát ra một ngh́n sáu trăm tám mươi lạng bạc đúc quả chuông lớn treo ở chùa Đại-giác.
Triệu Thành vỗ đùi đánh đét một cái:
Trong lịch sử các đế vương, vị nào không tăng thuế đă được khen đại minh quân. Đây không những không tăng, c̣n xá thuế nợ cũ, xá thuế ba năm liền. Thế, không thu thuế, y lấy tiền đâu chi dụng trong nước?
Hoàng Văn móc trong túi ra cuốn sách nhỏ, đọc:
Y đặt ra năm điều tiết kiệm. Một, không trả lương cho quân, mà cấp ruộng. Ai đi lính, được cấp ruộng, tùy theo đẳng trật. Lính trơn được hai mẫu ruộng khỏi nộp thuế. Hai, cho cung nga, thái giám về dân dă làm ăn, nên chi dụng trong hoàng cung tiết giảm rất nhiều. Ba, cấm các hoàng hậu, thân vương, công chúa cùng các quan dùng dân, lính làm tôi tớ. Bốn, cấp ruộng cho hoàng hậu, cung nga, vương thân, chứ không phát tiền. Năm, cấm các quan tiệc tùng, đ́nh đám.
Triệu Thành gật gật đầu:
Không trả lương, mà cấp ruộng có hai điều lợi. Thứ nhất, bắt buộc quan lại, quân lính ngoài thời gian làm việc, phải canh tác. Thứ nh́, sản lượng trong nước tăng. Không ngờ Lư Công-Uẩn lại giỏi vậy. Việc y độ cho hơn ngh́n người làm sư. Đương nhiên các sư đó trở thành người thân tín của y. Các sư trụ tŕ ở chùa, hàng ngày dạy dỗ dân chúng lương thiện, làm cho kỷ cương trong nước được trọng. Các sư đó nhớ ơn y, sẽ không tiếc lời ca tụng y. Dân chúng lại kính trọng y hơn. Hà... không biết trong nước hiện có mấy thứ thuế?
Hoàng Văn đáp:
Niên hiệu Thuận-thiên thứ tư (1013), tháng hai, y ban hành chiếu qui định sáu thứ thuế. Một, thuế đầm, ao, ruộng, đất. Hai, thuế băi dâu. Ba, thuế sản vật ở núi rừng. Bốn, thuế mắm, muối. Năm, thuế sừng tê, ngà voi, hương liệu. Sáu, thuế gỗ, hoa quả. Y qui định rất chi tiết như thuế ruộng, chia làm mười loại khác nhau mà thu. Ruộng đất của binh lính, quan vơ được miễn thuế. Ngược lại của hoàng hậu, thái tử, công chúa vẫn phải nộp. Chùa, đền miễn thuế.
Địch Thanh nh́n Triệu Thành:
Vương gia, đúng như vậy th́ thuế Giao-chỉ quá nhẹ. So với Trung-quốc không có thuế đinh. Thuế đinh thường gây oán hận trong dân chúng rất nhiều. Y lại không đánh thuế trâu, ḅ, gia súc. Dân chúng sẽ thi nhau chăn nuôi. Như thế nước mau giầu lắm. Lại không đánh thuế các nhà buôn, hầm mỏ. Chắc chắn hầm mỏ được khai thác mạnh. Dân càng mau giầu.
Triệu Thành dục Hoàng Văn:
Người kể tiếp đi.
Niên hiệu Thuận-thiên thứ mười lăm (1014) tháng chín, phát 310 lạng bạc trong kho, đúc chuông treo ở chùa Hưng-thiện. Tháng mười xuất tám trăm lạng bạc đúc chuông treo ở chùa Thắng-nghiêm và lầu Ngũ-phụng. Niên hiệu Thuận-thiên thứ bẩy (1016) được mùa to. Dân chúng giầu có, no ấm, Công-Uẩn không nhân dân trúng mùa thu thêm thuế, trái lại năm sau (1017) y xuống chiếu tha thuế ruộng cho cả nước.
Đông-Sơn lăo nhân vỗ bàn:
Giỏi. Y thấy trúng mùa, sợ dân lười không làm việc. Y xá thuế khen thưởng. Dân sẽ nghĩ phải làm sao cho trúng mùa nữa để được xá thuế nữa. Khôn! Khôn thực!.
Niên hiệu Thuận-thiên thứ chín (1018), y tha nửa thuế ruộng cho cả nước. Năm thứ mười lại độ dân làm sư, bỏ tiền trong kho đúc chuông chùa Hưng-thiện, Đại-giáo, Thắng-nghiêm. Năm thứ mười lăm (1024) y bỏ tiền riêng của ḿnh xây chùa Chân-giáo trong thành Thăng-long. Cũng năm này, tháng mười, y ban chiếu, những người trên năm mươi tuổi, không có con, cháu, được cấp tiền, gạo, vải , giao cho các xă phải trông coi, nuôi dưỡng. Nhà nào có từ bốn con trở đi, dưới tuổi mười sáu, mỗi con được miễn thuế một mẫu ruộng. Nhà nào nghèo, xuất kho cấp gạo, vải sao cho đủ ăn, đủ mặc. Y lập mỗi huyện một y viện. Mỗi xă có thầy lang săn sóc dân chúng.
Triệu-Thành hừ một tiếng, rồi tiếp:
Thảo nào ta đi khắp nước, thấy toàn nhà ngói, không thấy ăn mày, dân chúng giầu có sung túc. Họ làm ruộng từ sáng tinh mơ cho đến tối mịt. Lư Công-Uẩn được ḷng dân như vậy, mà bây giờ hạ y xuống thực khó thay. Làm sao bây giờ? Triều đ́nh thấy phía Bắc có bọn Kim, Liêu, phía Tây bọn Tây-hạ, Thổ-phồn mạnh, nên bỏ không muốn đánh các nước này, giao cho ta nghiên cứu đánh Giao-chỉ. T́nh h́nh này đánh cũng dở, bỏ lại tiếc. Làm sao đây?
Y đưa mắt nh́n Vương Duy-Chính. Hàn quang của y làm Vương lạnh người. Y rùng ḿnh nghĩ:
Ḿnh những tưởng v́ thiên tử lập đại công, mở mang bờ cơi xuống Nam, nên trong biểu tâu tŕnh, ḿnh dấu một số sự việc. Đợi khi triều đ́nh đă gây hấn với họ Lư, việc đă rồi. Nay tuy vương gia chưa ra mặt, nhưng kế hoạch đă chuẩn bị đầy đủ. Chỉ c̣n mấy ngày nữa, giữa anh hùng đại hội, vương gia ép Lư bỏ quốc hiệu, niên hiệu nữa, coi như công nhiên khai chiến. Bấy giờ triều đ́nh có muốn lui, th́ giữa Giao-chỉ với Tống coi như thù hận không lấp nổi. Ḿnh phải nói mấy câu, cho vương gia bước tới bước nữa mới xong.
Nghĩ vậy, y hướng vào Triệu Thành:
Vương gia. Từ trước đến nay, anh hùng, hào kiệt Giao-chỉ sở dĩ được dân chúng khâm phục, không phải ở việc xây chùa, đúc chuông, mà ở việc lập được vơ công. Thời An-Dương có Lư Thân, Cao Nỗ, Vũ Bảo-Trung. Thời Đông-hán có Trưng Trắc, Trưng-Nhị. Thời Tam-quốc có Triệu-Ẩu. Sau này có Lư Bôn, Dương Diên-Nghệ, Ngô Quyền, Đinh Bộ-Lĩnh, Lê Hoàn. Đây Lư Công-Uẩn không có ǵ cả. Y chỉ nhân chúa chết, con c̣n dại, dùng binh đao cướp nghiệp của người, nên anh hùng thiên hạ bất phục.
Y chỉ vào Nùng Dân-Phú, Đỗ Xích-Thập, Hoàng Liên:
Bằng cớ, trước mặt vương gia, ba vị vơ lâm đệ nhất cao thủ muốn triệt hạ y. Lại nữa Lê Long-Mang, Thiên-trường ngũ kiệt. Hào kiệt theo Lư chỉ có mấy ông sư ở chùa Tiêu-sơn, đâu đáng kể. Vả lại, trong đất Giao-chỉ này, hơn ngh́n năm thuộc Trung-quốc, dân chúng tự coi ḿnh như người Hoa. Nay chỉ cần thiên triều kéo quân sang đánh cho Lư một trận, họ sẽ nghiêng theo Tống.
Triệu Thành lại tỏ ra lạc quan:
Thôi, đă trót đành phải theo. Nào, bây giờ chúng ta cần làm ǵ nào?
Vương Duy-Chính dùng Lăng-không truyền ngữ, nói như rót vào tai Triệu Thành:
Hồi năy sư thái Hoàng Liên sợ khi lâm sự, Lư Công-Uẩn sẽ điểm giáp binh vây bắt anh hùng, hào kiệt đem chặt đầu về tội phản loạn th́ hỏng hết việc. Vương gia đừng lo, đây là điều chúng ta mong mà không được.
Triệu Thành cau mày:
Người nói sao?
Vương Duy-Chính tiếp:
Mục đích của triều đ́nh muốn cho bên Giao-chỉ chia năm, sẻ bẩy chém giết nhau. Triều đ́nh đứng tọa thủ bàng quan. Trai c̣ tranh đấu, ngư ông đắc lợi. Giả tỉ mà Lư Công-Uẩn điểm giáp binh diệt vơ lâm, chắc chắn sẽ có cuộc đổ máu kinh hoàng. Phái Tiêu-sơn, Tây-vu chém giết nhau với phái Sài-sơn. Trong nội bộ phái Tản-viên, bọn theo Đặng Đại-Khê chém giết nhau với bọn theo sư huynh Xích-Thập. Bọn theo Tịnh-Tuệ đại chiến với bọn theo sư thái Hoàng Liên. Phái Tiêu-sơn, bọn theo Nguyên-Hạnh giết bọn theo Minh-Không. Tất nhiên bọn Tiêu-sơn, Đại-Khê, Tịnh-Tuệ theo Công-Uẩn sẽ được giáp binh yểm trợ thắng thế. Bọn thua kéo về trang ấp, khởi loạn.
Y ngừng lại, nh́n quanh, rồi tiếp:
Lê Long-Mang, Nguyên-Hạnh có tổ chức khắp nơi, nếu họ ra tay trước, có lẽ ngay ngày đầu, đă chiếm được một phần ba nước. Trong khi Lăo-qua, Chiêm-thành mang quân tới. Đợi cho quân Chiêm, Lào cùng Lư đánh nhau nghiêng ngửa. Ta cho thủy quân vùng Quảng-đông đổ lên mặt Nam tiếp Chiêm-thành, chiếm Thanh-hóa, Trường-yên. Mặt Bắc ta đóng trọng binh, ép Lư Công-Uẩn thoái vị. Tất nhiên dân chúng, quan lại sợ quân thiên triều, chạy theo Lê Long-Mang. Đến đây Lư, Lê đều kiệt quệ. Cuối cùng một Lư, hay một Lê thắng, tinh lực trong nước hết. Ta kéo trọng binh sang đóng, nhưng vẫn để cho chúng tồn tại, không có quyền hành ǵ. Ta sai chúng đem phần tinh lực cuối cùng đánh Chiêm, chiếm Lào. Dĩ nhiên chiếm xong, chúng hoàn toàn tê liệt. Ta đặt quan, chia quận hiện cai trị cả ba xứ Việt, Chiêm, Lào. Trên cao ta vẫn để cho người bản sứ ngồi làm vua bù nh́n.
Triệu Thành tin tưởng vào Vương Duy-Chính phần nào:
Chỉ c̣n mấy ngày nữa đại hội anh hùng. Chúng ta cứ thế mà làm. Các vị có ǵ thay đổi, xin liên lạc với Cổ-loa hầu Hoàng Văn.
Trên xà nhà Mỹ-Linh chợt tỉnh:
Th́ ra tên Hoàng Văn này tước phong Cổ-loa hầu. Bọn triều Tống thực khả ố. Tên Hoàng Văn theo chúng chinh chiến. Khi thành sự, chúng phong cho khu đất của Đại-Việt. Như vậy dù muốn dù không tên Hoàng Văn này phải cố công giúp Tống chiếm Đại-việt, mới hy vọng hưởng lộc Cổ-loa.
Triệu Thành nâng chén rượu lên:
Nào mời các vị cạn chung này. Chúng ta cứ thế mà làm.
Sau đó bọn chúng ăn uống chán rồi, Vương Duy-Chính hỏi Hoàng Văn:
Hoàng quân hầu, bây giờ chúng ta phải ra về bằng cách nào, để che dấu tung tích Khu-mật viện bọn Giao-chỉ? Nhất là vơ lâm.
Hoàng Văn chỉ vào cái tủ kê giữa pḥng:
Vương gia với Đông-Sơn lăo sư, Địch trạng nguyên, Vương đại nhân cứ theo đường này mà đi, có trời cũng không biết. C̣n Nùng hầu cùng Nùng huynh tôi sẽ phái người đưa ra khỏi đây. Riêng Triệu an phủ sứ, Đỗ lăo sư, Hoàng sư thái cùng Lư trại trưởng, lúc vào bằng đường chợ, bây giờ cũng ra bằng đường chợ.
Triệu Thành nh́n ra ng̣ai trời, y nói:
Thôi, chúng ta giải tán. Bây giờ không chừng cuối giờ Dậu rồi.
Hoàng Văn đứng dậy mở cánh tủ ra. Vương Duy-Chính chui vào trước, tiếp theo đến Đông-Sơn lăo nhân. Triệu Thành đi sau cùng.
 Mỹ-Linh kinh ngạc:
Cái tủ kia lớn tuy lớn thực, nhưng giỏi lắm chứa được ba người . Tại sao bọn chúng tám người chui vào lọt?
Nàng đoán:
Phải rồi, phía sau tủ thông sang gian pḥng bên cạnh. Từ pḥng bên cạnh, chúng sẽ ra bằng ngả khác.
Hoàng Văn đóng cánh cửa tủ lại, y bảo Triệu Huy:
An phủ sứ cùng với sư huynh Lư trại chủ ra khỏi xóm nay, xin cứ tới cuối chợ thuê xe ngựa về Thăng-long, không nên la cà chỗ khác, e gặp vơ lâm phiền phức lắm.
Hoàng Văn gọi một thiếu niên:
Đoàn, mi dẫn Nùng hầu cùng huynh theo phía sau vườn ra chợ.
C̣n lại Đỗ Xích-Thập, Hoàng Liên, Hoàng Văn. Xích-Thập hỏi Hoàng Văn:
Sư huynh nghĩ sao?
Qua cuộc họp vừa rồi, ta thấy rơ ràng bọn Tống chuẩn bị chiếm Đại-việt sát nhập làm quận huyện. Chúng ta hiện chưa thể có quyết định ǵ hơn, ngoại trừ chờ anh em về đủ, rồi lấy quyết định chung. À, tôi nghe nhị sư huynh bị bắt giải về Thăng-long, việc này ra sao?
Hoàng Văn thở dài:
Nhị sư huynh hành sự không cẩn trọng, lại muốn mau có kết quả, nên mới ra nông nỗi. Y ẩn thân trong phái Đông-a từ bao lâu nay, đâu có ai hay. Hồi bọn Triệu Thành đến Thiên-trường mua chuộc phái Đông-a. Nhị sư huynh khẩn báo cho chúng ta biết. Chúng ta quyết định giết chết con trai Trần Tự-An, để gây ra hố chia rẽ giữa phái Đông-a với Tống. Không ngờ nhị sư huynh sơ hở, bị lộ, rồi bị Trần Kiệt bắt được.
Nghe đến đây Mỹ-Linh tỉnh ngộ:
Th́ ra bọn này thuộc bang Nhật-hồ. Không biết bọn Nhật-hồ âm mưu ǵ, mà chúng mai phục trong các vơ phái, triều đ́nh đă đành. Chúng c̣n mai phục trong bọn Tống nữa. Rơ ràng Hoàng Văn trước đây theo Tống chinh chiến, được phong tới tước hầu. Y trở về Bắc-biên hoạt động cho Nhật-hồ. Khi phụ vương ta đánh căn cứ của Nhật-hồ, y gỉa làm tù nhân, kẻ thù của Nhật-hồ ẩn vào vương phủ. Y làm quản gia giả, tước hầu của Tống đối với y cũng giả. Y đích thực người của Nhật-hồ. Ta im lặng, theo dơi, may ra t́m được thủ phạm hại vương mẫu ta.
Đỗ Xích-Thập hỏi Hoàng Văn:
Nhị ca hiện bị Khu-mật-viện giam giữ. Không biết tại nhà giam nào? Chúng ta phải t́m cách cứu ra.
Hoàng Văn lắc đầu:
Ta đă ḍ hỏi Khai-thiên vương, nhưng chính vương cũng không biết. Để thủng thẳng, ta sẽ cố gắng t́m chỗ giam giữ, rồi cứu ra.
Đỗ Xích-Thập móc trong túi ra tờ giấy. Y trao cho Hoàng Liên: