Theo như tục lệ, các Thái tử, Công chúa dâng lễ vật lên Hoàng đế, cùng đưa lời
chúc tụng. Đúng luật thời bấy giờ, th́ con trai lớn dâng trước rồi theo thứ tự
đến các con trai nhỏ. Sau đó tới các con gái lớn. Nhưng Thuận-thiên hoàng đế xuất
thân quan vơ. Thủa mới lập nghiệp, công chúa An-quốc vơ công cực cao, theo giúp
ngài chinh chiến lập nhiều công. V́ vậy bà được chúc đầu tiên, riết rồi thành lệ
cứ theo trật tự con lớn chúc trước. Con nhỏ chúc sau. Luật triều Lư định rằng dù
thái tử, dù công chúa, nếu chưa thành gia thất, vẫn bị coi như chưa trưởng thành.
Thời cổ, các nước Á-châu gọi con trai của vua là Hoàng-tử. Trong các con, người
nào được chỉ định làm trừ quân, tất sau này nói ngôi vua cha, được gọi bằng
Thái-tử. Nhưng triều Lư có biệt lệ. Tất cả con trai Thuận-thiên đều được phong
Thái-tử. Khi các thái-tử tuổi 13-14 được ban tước vương cho mở phủ đệ riêng,
cùng cầm quân, thực tập phương sách cai trị, hầu sau này nếu lên nối ngôi cha
không gặp bở ngỡ.
Lư Long Bồ là con thứ nh́ của Thuận-thiên hoàng đế, đến tuổi 13, thụ phong
Khai-quốc vương, truyền mở phủ đệ riêng. Vua và Hoàng-hậu tuyển cho vương nhiều
cơ thiếp xinh đẹp. Nhưng Vương chỉ giữ lại vài người làm tỳ nữ hầu hạ, chứ không
dùng làm cơ thiếp. Vương dùng hết cả tâm tư dùng vào việc học văn, luyện vơ,
cùng thu phục nhân tâm thiên hạ. Phụ hoàng và mẫu hậu cho rằng vương khó tính
nên chưa có cô gái nào lọt vào mắt xanh.
Năm trước trong cuộc tuyển cung nữ, phụ hoàng đặc ân chọn Huệ Phương, Hà Thanh
là hai thiếu nữ sắc nước hương trời, ôn nhu văn nhă cho Vương. Vương thu nhận
hai nàng coi như một người bạn, rồi sau khi biết hai nàng có ẩn t́nh. Vương âm
thầm trả hai nàng về với t́nh quân. Cho nên Vương trong cuộc dâng lễ vật, dù vương
cầm quyền nghiêng nước, dù vương gần ba mươi tuổi, mà vẫn bị coi như nhỏ nhất,
phải dâng lễ vật sau cùng.
Công chúa An-quốc dâng lễ vật đầu tiên. An-quốc pḥ mă Đào Cam Mộc tiến tới trước
sập rồng định qú xuống hành đại lễ. Nhưng đức vua đă đứng dậy, hai tay đỡ pḥ
mă công chúa, ngài bùi ngùi cảm động :
__ Các con miễn lễ. Giang sơn này sỡ dĩ có ngày nay, một là do công của cô Hồng
Châu, hai là do công của các con. Tiếc rằng cô Hồng Châu không c̣n tại thế. Hai
con thích ngao du sơn thủy, đi lập Vạn-hoa sơn tranbg mà vẫn không quênquốc sự.
Hôm Khai-quốc vương tấu về t́m được hai con, ta cùng các hoàng hậu mừng đến trẻ
được mấy tuổi.
Công chúa An-quốc định tâu với phụ hoàng về việc cô mẫu, công chúa Hồng Châu c̣n
tại thế. Nhưng bà nhớ đến chuyện Khai-quốc vương yêu cầu phải giữ kín, hầu giữ
thể diện cho Thân Thiệu Anh, Thân Thừa Quư.
Đức vua rút thanh kiếm Thượng phương trao cho pḥ mă Đào Cam Mộc :
__ Trước phủ Khai-quốc vương tổng trấn Thanh-hóa. Mới đây ta chuyển vùng Nam Đại-việt
thống thuộc về phủ Khai-quốc vương kiêm nhiệm. Ta lại trao chức Thái-úy Phụ-quốc,
quăn Khu-mật viện cho vương. Chỉ trong hai năm, mà Vương làm cho binh lực hùng
mạnh. Toàn quốc không c̣n một vụ trộm cướp nào. Ta sợ Vương kiêm nhiệm nhiều
việc quá, e khó chu toàn. Ta trao thanh gươm này cho con. Con được quyền thay ta
thanh sát khắp đất nước. Gặp việc tùy nghi giải quyết.
Đào Cam Mộc kính cẩn tiếp kiếm.
Công chúa An-quốc vẫy tay, bẩy thị nữ quần áo xanh tiến vào. Mỗi người bưng một
b́nh sứ trồng hoa. Tất cả đều là hoa lan. Hương thơm đặc bioet đưa khắp pḥng.
Công chúa An-quốc tâu :
__ Con kính cẩn dâng lên phụ hoàng bẩy thứ Đại-việt danh lan mà con trồng được.
Dực-thánh vương ngắm nh́n bẩy chậu lan hỏi :
__ Ta tưởng chỉ có một vài loại lan, nào ngờ có bẩy loại sao ?
Công chúa An-quốc biết ông chú vốn xuất thân vơ nghiệp, chưa từng đọc sách nên
giảng giải :
__ Thưa thúc phụ, không phải vài hay bẩy, mà có không biết bao nhiêu mà kể. Thần
nhi chỉ mới sưu tầm được hai ngh́n năm trăm loại khác nhau. Tạo hóa ưu ái dành
riêng cho Đại-việt ta không biết bao nhiêu loại lan. Mỗi loai lan lại phân ra
muôn h́nh, muôn mầu, muôn sắc, đẹp không bút nào tả xiết. V́ vậy tự cổ Lan Đại-Việt
được các danh sĩ gọi là Vương-hậu, v́ nét đẹp, v́ hương thơm, và v́ tính chất
trong sạch. Tùy theo nơi Lan mọc, thần nhi tạm phân Lan thành ba loại là
Phong-lan, Địa-lan và Thạch-lan. Phong-lan là Lan mọc trên những thân cây, trên
cao. Địa-lan là Lan mọc trên mặt đất. C̣n Thạch-lan là Lan mọc ở nhưng khe đá.
Thần nhi chọn trong hai ngh́n năm trăm loại lan, lấy bẩy thứ lan có tên Thần-lan.
Vũ-đức vương cười :
__ Chị nói bẩy loại lan này vốn có tên, tức tiền nhân đặt ra cho nó, hay chính
chị đặt ra ?
__ Pḥ mă Cam Mộc với chị lựa ra bẩy thứ Phong-lan dường như tạo hóa cố t́nh
sinh ra, cho hợp với đất linh, khí hùng của Đại-việt. Đặc tính, h́nh, sắc của
chúng gắn liền vối lịch sử.
Đại sảnh đường đông tới hơn trăm người, mà không một tiếng động. Ai cũng im lặng
nghe An-quốc giảng giải về Lan. Bà vừa giảng, vừa chỉ vào những chậu lan, tươi
mầu sắc sặc sỡ.
Hoàng hậu Tá-quốc hỏi :
__ Công chúa giỏi thực, chỉ ra đặc tính cây cỏ thiên nhiên phù hợp với dân tộc
Việt. Nào công chúa hăy nói tại sao những cây Lan này được ví như những biểu tượng
anh linh của ḍng giống Tiên-Rồng.
An-quốc chỉ vào từng chậu một :
__ Đặc tính thứ nhất là lá xanh, thân lá mọc thẳng. Khi gặp giông tố ngả nghiêng,
rồi lại trở về với lối mọc thẳng. Giống như người Việt, dù bị mất nước, dù gặp
mưa dồn, sóng vỗ, vẫn không thay đổi tính t́nh. Đặc tính thứ nh́ là các cánh hoa
uốn cong vào phía trong nhụy, che cho phấn, nhụy không bị gió thổi tan tác. V́
vậy hoa giữ được hương lâu dài hơn các loại khác. Đặc tính thứ ba là hoa mọc sát
nhau, không bao giờ bông nọ ép bông kia. Ví như người Việt, xuất thân ở đâu cũng
không kèn cựa, chèn ép người. Đặc tính thứ tư là hương Lan thơm nhẹ nhàng, dù
gió đưa, dù ghé mũi ngửi hương thơm cũng như nhau. Về mầu sắc, từ lúc nở đến lúc
tàn, mầu sắc vẫn giữ nguyên. Ví như người Việt, bền gan, giữ vững khí tiết, dù
lúc c̣n nhỏ, hay khi về già. Đặc tính thứ năm là hoa nở vào cuối Đông, sang đầu
Xuân. Trong khi các loại khác đều nở vào mùa Hạ.
Thuận-thiên hoàng đế gật đầu :
__ Công chúa thực xứng danh vương hậu các loài hoa. Trong bẩy thứ Lan này, chắc
mỗi thứ công chúa đặt cho một tên hẳn.
Được phụ hoàng khen, mặt công chúa ửng hồng :
__ Quả thế. Loại thứ nhất tên Động-đ́nh cầu hôn.
Một thị nữ tách khỏi hàng, đến trước hoàng đế qú xuống dâng lên một chậu hoa.
An-quốc chỉ vào chậu đó :
__ Hoa tên Động-đ́nh cầu hôn để nhắc lại xưa Quốc-tổ An-dương vương cầu hôn cùng
con vua Động-đ́nh. Loại hoa này mỗi mầm có hai bông, chẳng bao giờ lẻ loi một,
lại chẳng bao giờ có ba. Bông lớn màu đỏ tươi, nở tṛn như mặt trời chiếu sáng.
Tỷ như Quốc-tổ Kinh-dương. Bông nhỏ thon dài, mầu nhạt hơn một chút hơi nghiêng
về phía bông lớn. Tỷ như công chúa Động-đ́nh. Đặc điểm của thứ lan này mọc trên
đỉnh cao nhất của núi. Chỗ nó mọc, xung quanh có không biết bao nhiêu hoa Trường-xuân.
Đúng như sử nói : « Xưa vua Kinh-dương cầu hôn cùng công chúa con vua Động-đ́nh,
rồi lên núi Tam-sơn hưởng thanh phúc, lúc bấy giờ đỉnh Tam-sơn nở ra ba vạn hoa
Trường xuân ».
Nàng vẫy tay, một thị nữ khác tiến đến trước mặt hoàng đế dâng lên chậu thứ nh́.
Chậu này gồm hai tầng. Tầng trên có hai bông màu đỏ nhạt. Một bông. Một bông
cuống nhỏ dài, đầu nở lớn ra như đầu rồng. Một bông nhỏ hơn, giống như con chim
âu bay. Tầng dưới nở ra một bầu đầy hoa nhỏ.
__ Tâu phụ hoàng, loại lan này thần nhi đặt tên là Bách tộc đồng nguyên
Đây tầng trên, bông h́nh đầu rồng giống Quốc-tổ Lạc-Long, bông h́nh đầu chim,
giống Quốc-mẫu Âu-Cơ. Tầng dưới, nở ra hàng trăm hoa nhỏ, giống trăm con. Lọai
lan này hương thơm nhẹ nhàng, nhưng lâu tàn. Hoa mọc bất cứ chỗ nào cũng được.
Song có đặc điểm hễ tưới phân, hoa chết liền, phải tưới bằng nước mưa. Tương
truyền loại lan này xuất hiện vào ngày Quốc-Tổ dẫn năm mươi con xuống biển, Quốc-Mẫu
dẫn năm mươi con lên núi. Quốc-Tổ chỉ vào khóm lan nói rằng : Nay các con cùng
một gốc, ví như trăm bông khóm lan này. Sau đây mỗi người làm vua một phương,
phải dạy con cháu nhớ về cỗi nguồn cùng một tổ.
Mỹ-Linh đang ngồi nghe cô giảng giải về Lan, bỗng có luồng âm thanh nói như tơ
rót vào tai nàng. Nàng nhận ra tiếng của Khai-Quốc vương:
Trên nóc điện có gian nhân nghe trộm. Cháu hăy ra ngoài cửa Tây, có Thanh-Mai,
Bảo-Ḥa chờ ở đó. Mọi hành động phải nghe lời Thanh-Mai.
Mỹ-Linh nh́n sang phía dẫy sập của Bắc-biên, quả không thấy Thiệu-Thái, Bảo-Ḥa,
Lệ-Thanh đâu. Nàng vội vàng kiếm cớ đứng lên lẻn ra cửa Tây Long-hoa đường.
Trong khi đó cuộc luận về Lan vẫn tiếp tục. Đàm qúi phi chỉ vào chậu lan thứ ba:
Lọai lan này, rất thường thấy trong vườn Thượng-uyển. Không hiểu do sự tích ǵ,
mà người ta nói rằng nó tượng trưng cho buồn sầu. Trai, gái đang lúc thanh xuân
chẳng nên tặng nhau.
An-Quốc gật đầu:
Thưa quí phi quả như thế. Loại lan này xuất hiện vào thời vua Hùng. Tương truyền
thời vua Hùng, có cô Mỵ-Nương, con quan Tể-tướng, nhan sắc hiếm có trên đời.
Nàng thường ngồi trên lầu ngắm sông dưới trăng. Một ngày kia, thấy trong sương
mờ một chiếc thuyền đánh cá lững lờ trôi qua. Trên thuyền có ngư nhân ngồi thổi
tiêu. Tiếng tiêu khi cao vút tận mây mờ, khi trầm như xuyên vào cây vào cỏ, như
muôn ngàn sợi tơ. Người nghệ sĩ trên sông hàng đêm thổi tiêu, nào biết Mỵ-Nương
tương tư ḿnh. Một ngày kia, vắng tiếng tiêu của chàng, Mỵ-Nương bị bệnh nặng,
không thuốc ǵ chữa khỏi. Rồi bỗng dưng, người nghệ sĩ lại xuất hiện, tiếng tiêu
đưa đến lầu, Mỵ-Nương khỏi bệnh ngay. Quan tể tướng t́m được nguyên do bệnh của
con gái. Ngài cho triệu Trương Chi vào yết kiến. Khi Trương Chi đến, th́ hỡi ôi,
Mỵ-Mương vỡ mộng, v́ mặt chàng thực là khó coi. Mỵ-Nương thất vọng sai đuổi
Trương Chi ra.
Đàm quư phi mỉm cười:
Hèn ǵ trong dân gian có câu ca rằng:
Ngày xưa có anh Trương-Chi,
Người th́ thực xấu, tiếng th́ thực hay.
Cô Mỵ-Nương vốn ở lầu Tây,
Con quan tể tướng ngày rầy cấm cung.
Công chúa ơi, thế rồi hai người có thành vợ chồng không?
Tâu quư phi không. Anh Trương Chi bị làm nhục, trở về nhảy xuống sông chết. Tin
này đến tai Mỵ-Nương, nàng hối hận vô bờ bến, sinh bệnh nặng. Thế nhưng từ đấy,
đêm trăng, Trương Chi hiện lên thổi tiêu cho nàng nghe. Quan Tể tướng giận lắm,
sai quật mả Trương Chi đem xác đốt, nhưng khi đào lên chỉ có tảng đá. Ngài
truyền đem vứt tảng đá đi. Cô Mỵ-Nương sai lượm viên đá, đẽo thành cái chén uống
nước. Hằng đêm, nàng đổ nước vào chén, h́nh Trương Chi lại hiện lên, thổi tiêu
cho nàng nghe.
Công chúa chỉ vào chậu hoa Trương Chi, Mỵ-Nương:
Kể từ ngày ấy, bên băi sông lầu Tây, nảy ra loại Lan này. V́ vậy người Việt ḿnh
gọi là Lan Trương-Chi, Mỵ-Nương. Ban ngày, không có hương thơm, ban đêm hương
tỏa ngào ngạt. Đây cánh trong cùng của hoa có bốn mầu. Nhụy giống h́nh người
Trương Chi hiện lên trong chén, mầu vàng như chàng từng tắm trăng. Cánh hoa h́nh
giống chén uống nước. Phần dưới mầu vàng, là chỗ nước đựng trong chén. Phần trên
trắng, là phần chén, mà nước không tới. Trong chỗ chứa nứơc có hai vết đen, là
bóng Mỵ-Nương với tể tướng in vào.
Đàm qúi phi gật đầu:
Quả đúng như công chúa nói. Thế sao trên cánh hoa lại có vết đỏ?
Thưa, vết đỏ đó do công chúa uống trà, son trên môi nàng in vào miệng chén.
Lan Trương-Chi, Mỵ-Nương
Hoàng hậu Lập-Giáo chỉ vào một chậu hoa hỏi:
C̣n Lan này có tên ǵ, mà sao coi giống phía sau một người không quần áo, dù
rằng rất đẹp?
An-Quốc chỉ vào khóm lan đó nói:
Lan này có tên Hiếu tử thiên thu, cũng xuất hiện vào thời vua Hùng. Tương truyền
vua Hùng thứ sáu. Bấy giờ có cha con họ Chử, làm nghề đánh cá ven sông. Hai cha
cho chỉ có một cái khố. Khi cha ra ngoài th́ cha mang. Khi con ra ngoài th́ con
mang. Một ngày, cha lâm bệnh sắp chết, dặn rằng: Sau khi bố chết, con cứ chôn bố
trần truồng, giữ lại cái khố mà mặc. Nhưng khi cha chết, Chử đồng tử đem chôn
khố theo cha. Một ngày kia chàng đang đánh cá ven sông, thấy thuyền rồng công
chúa tới. Sợ hăi, chàng vội bới cát, chôn nửa người trong bụi lau. Công chúa đến
băi sông, truyền quây màn quanh bụi lau để tắm rửa. Khi đang tắm, nước làm trôi
cát, hiện ra thân h́nh trần truồng của Chử đồng tử. Công chúa cho là duyên trời,
kết hôn với chàng. Từ đấy ven sông, nảy ra loại lan này, dân chúng gọi là lan
Chử đồng tử hay Lan hiếu tử thiên thu. Tuy h́nh dáng thô tục, nhưng tinh thần
đẹp hơn bất cứ loại hoa nào.
Lan Chữ đồng tử hay Hiếu-tử Thiên-thu
Công chúa ra lệnh cho tỳ nữ khác bước tới dâng lên một chậu lan, hương tuy thơm,
nhưng hơi nặng. Hoàng đế bật cười:
Loại này coi ngộ thực. Trông giống như một cái chum đựng nước, trên có lọng che.
H́nh dáng thực quen thuộc. Không biết ta thấy ở đâu rồi.
Khai-Quốc vương tâu:
Tâu phụ hoàng, h́nh dáng giống như chỏm cao nhất của Loa-thành thời vưa
An-Dương.
Đúng rồi, giống hệt vọng lâu ở Loa-thành. Này công chúa, loại lan này ắt có tên
là Lan Loa-thành hẳn?
Tâu phụ hoàng vâng. Tương truyền sau khi vua An-Dương đắp xong Loa-thành, khắp
chân thành nảy ra loại lan này, cho nên dân chúng dùng tên ấy đặt cho lan.
Hoàng hậu Lập-Nguyên hỏi:
Này công chúa, trong bẩy thứ lan, tất cả đều hướng trở lên. Duy loại lan này lại
mọc úp trở xuống. Thế nó ứng với linh khí ǵ của Đại-Việt?
An-Quốc tâu:
Loại Lan này có tên Hận t́nh Mỵ-Châu.
Hoàng hậu Lập-Nguyên thấy trong đám con cháu, có nhiều người không hiểu Mỵ-Châu
là ǵ, bà nói:
Công chúa nhắc lại truyện t́nh Mỵ-Châu, Trọng-Thủy một lần đi.
Công chúa An-Quốc dạ một tiếng tiếp:
Thời vua An-Dương có Âu-lạc tam bảo. Một, nhờ Cao-cảnh hầu Cao-Nỗ chế ra nỏ
thần, bắn một phát cả ngh́n mũi tên. Hai, địa thế hiểm trở. Ba, vơ công Đại-Việt
khắc chế vơ công Trung-nguyên. Vua nước Nam-Việt tên Triệu Đà, nhiều lần mang
quân sang đánh đều bại. Triệu Đà xin cầu hoà, hỏi công chúa Mỵ-Châu cho con trai
là Trọng-Thủy. Lại xin cho Trọng-Thủy sang ở rể Âu-lạc. Trọng-Thủy sang ở trong
Loa-thành, y ḍ được cách chế nỏ thần, học được vơ công Đại-Việt, và biết được
điạ thế. Rồi y giả vờ xin về thăm nhà. Khi đi, y hỏi Mỵ-Châu rằng Lỡ ra khi ta
đi rồi, có giặc đến th́ biết làm sao t́m nàng?. Mỵ-Châu đáp :Thiếp có áo lông
ngỗng, khi đi đâu, thiếp rắc lông ngỗng. Chàng t́m dấu lông ngỗng sẽ thấy thiếp.
Đến đó An-Quốc ngừng lại. Đám trẻ nhao nhao lên:
Rồi sao? Rồi sao?
Trọng-Thủy trở về cung cấp Âu-lạc tam bảo cho Triệu-Đà. Triệu-Đà cất quân sang
đánh Âu-lạc. Vua An-Dương bị thua. Ngài bỏ Mỵ-Châu ngồi sau ngựa, rồi chạy vào
phương Nam. Trọng-Thủy theo dấu lông ngỗng đuổi gấp. Khi vua An-Dương chạy đến
bờ biển vùng Cửu-chân, mới khám phá ra vụ Mỵ-Châu. Ngài rút kiếm giết con gái,
dặn các tướng ẩn thân chờ ngày phục quốc, rồi nhảy xuồng bể tự tử. C̣n
Trọng-Thủy đuổi đến bờ biển thấy xác vợ, sau khi chôn cất nàng rồi, trở về
Cổ-loa nhảy xuống giếng tự tử. Từ đấy quanh thành Cổ-loa mọc ra thứ lan này, dân
chúng gọi là Hận t́nh Mỵ-Châu.
An-Quốc chỉ vào khóm Lan hận t́nh Mỵ-Châu:
Lan này có đặc điểm, là lưng cánh mầu trắng, phía trong mầu tím, luôn mọc ngược,
giống như người sầu hận, hối lỗi.
Lan T́nh hận Mỵ-Châu
Tỳ nữ dâng khóm lan cuối cùng. Hoàng đế gật đầu:
Trong bẩy loại Lan, loại này trông vừa mỹ miều, lại thanh cao. Hoa có năm cánh,
mầu trắng ngần, nhụy giống h́nh một phụ nữ đầu đội khăn, mặc áo hơi vàng. Hương
thơm thực thanh cao. Thế nó biểu tượng cho biến cố ǵ? Hồi năm trước, trẫm đi
qua Mê-linh, thấy khắp nơi đều có Lan này.
An-Quốc chỉ vào khóm lan:
Tâu, Lan này có tên là Lan vua Bà.
Cả đại sảnh cùng ồ lên một tiếng, tỏ vẻ hiểu biết. An-Quốc tiếp:
Trong lịch sử Đại-Việt, chỉ có một người đàn bà duy nhất mặc áo lụa vàng nhạt,
đó là vua Trưng. Tương truyền từ sau khi vua Bà tuẫn quốc ở Cẩm-khê, khắp nơi
trên Lĩnh-Nam đều mọc ra lọai hoa này. |