Nguyên khi được tin cấp cứu của Thuần-Khanh, công chúa Bảo-Ḥa liền dùng chim ưng
báo cho Nùng Trí-Cao biết để kịp đem quân cứu viện. Trí-Cao thỉnh ư kiến Trần
Trung-Đạo. Trung-Đạo lư luận:
_ Không cần đem quân giải vây cho Thuần-Khanh. Thuần-Khanh lui giữ đèo Nam-sơn,
với đội thú rừng th́ không dễ ǵ Toàn Huy chiếm được. Cứ t́nh h́nh mà xét th́
chậm lắm là trưa hôm nay thân mẫu cháu chiếm xong thành Hoành-châu, tất bà đem
quân cứu Thuần-Khanh. Nay Toàn Huy dồn hết quân đuổi Thuần-Khanh, ắt thành bỏ
trống. Ta nên đem quân đánh úp Củng-châu. Như vậy không cần giao chiến, quân
Toàn Huy cũng tan.
Trí-Cao truyền lệnh cho Hữu-thiên ngưu vệ thượng tướng quân, Na-dương hầu Vi-Chấn
đem một ngh́n quân kị lên đường đánh Củng-châu. Quả nhiên ông chiếm Củng-châu dễ
dàng. Chiếm thành xong, ông cho phục binh sẵn. Khi Toàn Huy bị thua chạy về, vừa
vào thành th́ bị phục binh bắt. Đám quân đi sau kinh hăi, bỏ chạy, bị Thuần-Khanh
bắt hết.
Quân sĩ trói Toàn Huy giải vào tŕnh diện Vi Chấn. Toàn Huy đứng sững, không
chịu quỳ gối. Vi Chấn hỏi:
_ Tên nho sinh mặt trắng kia, mi đă bị bắt mà c̣n chưa biết thân phận ư? Bộ mi
chê gươm ta không sắc sao?
Toàn Huy cười nhạt:
_ Ta chẳng may thua trí mi mà bị bắt. Đầu kẻ sĩ có thể trảm, mà không thể chịu
nhục. Mi chém ta đi cho rồi.
Vi Chấn cười nhạt:
_ Được, ta không giết mi, mà để cho hổ xơi thịt mi, xem mi có ngang ngược được
không?
Ông hú lên một tiếng, hai con hổ từ ngoài chạy vào há miệng đỏ ḷm, gầm gừ tiến
tới cạnh Toàn Huy. Toàn-Huy cười ha hả:
_ Người đời chết rồi bị chôn. Thịt, xương để cho dun dế ăn. Riêng ta, lại được
hổ ăn, thực cũng khoái. Ha, ha.
Hai con hổ ghé răng cà vào đùi Toàn Huy, y tuyệt không sợ hăi, sắc mặt thản
nhiên. Y ngửa mặt lên trời nói lớn bằng tiếng Việt:
_ Người Việt chúng tao có câu hát để tỏ chí khí rằng:
Con c̣ mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi ông vớt tôi vào,
Tôi có ḷng nào ông hăy xáo măng.
Có xáo th́ xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau ḷng c̣ con.
Cho nên nay ta chết trong bụng cọp th́ con ǵ hơn.
Vi Chấn kinh hăi hỏi:
_ Toàn tiên sinh, tiên sinh là người Việt sao? Như vậy Chấn này thực có tội.
Vi Chấn vội cởi trói cho Toàn Huy:
_ Nếu như lúc đầu tiên sinh cho ta biết rằng tiên sinh là người Việt th́ đâu đến
nỗi có chuyện hiểu lầm. Chấn này thực đắc tội.
Toàn Huy chắp tay:
_ Kể về tuổi, quân hầu ngang với phụ thân tôi. Kể về tài, về đức, quân hầu thực
là người có đại công với tộc Việt, Huy này đâu dám bắt lỗi.
Thế rồi Toàn Huy tŕnh bầy cho Vi Chấn biết: y đỗ tiến sĩ năm mười chín tuổi. Nhưng
v́ là người Việt, y không được bổ dụng vào những chức vụ quan trọng. Cuối cùng
nhờ Yến Thù, y được đưa ra biên giới làm tham quân cho Tần-vương Tự-Mai trong
cuộc pḥng thủ Liêu. Khi Tần-vương Tự-Mai rời mặt trận phía Bắc, đề bạt y vào
chức huyện lệnh. Triều đ́nh cho y về trấn Củng-châu.
Toàn Huy cung cấp bố trí quân sự, dân số, tài nguyên, dân t́nh trong vùng lưỡng
Quảng với Vi Chấn.
Thuần-Khanh đă giải tù binh về. Thuần-Anh truyền tha hết, rồi cứ hai binh Tống,
một binh Việt, tổ chức thành đạo quân mới. Những quan lại cũ được giữ nguyên
chức tước. Quan, quân đều vui mừng, v́ lương bổng bên Đại-Việt cao gấp đôi bên
Tống. Thuần-Anh sai đem gia đ́nh quan, quân Củng-châu về Trường-sinh, cho đến
khi hết chiến cuộc. V́ vậy đạo quân đánh Hoành-châu, Ninh-châu, Củng-châu chưa
quá mười ngàn, nay thành ba chục ngàn. Thanh thế rất lớn.
Mấy hôm sau, vua Bà cùng pḥ mă Thân Thiệu-Thái tới. Thuần-Anh vội đem văn vơ
các quan ra tiếp đón. Gặp Toàn Huy, vua Bà mừng lắm, dắt tay y cho ngồi bên cạnh,
rồi nói như mẹ nói với con :
_ Có phải cháu tên thực là Phạm Đ́nh-Huy không? Ta biết khi ra làm quan với Tống,
cháu cải danh là Toàn Huy. Thực là trời đem cháu về với Đại-Việt. Trong tất cả
các tướng sĩ trẻ của ta, duy Thường-Kiệt, Dư Phi là người đọc sách. Nhưng Dư Phi
th́ ham thanh, ham chơi. Thường-Kiệt lại không có kinh nghiệm, hiểu về lưỡng Quảng
bằng cháu. Nay ta để cháu cạnh Trí-Cao, hầu giúp Trí-Cao tổ chức Trường-sinh
thành nước Đại-Nam có văn hiến. Tuổi cháu c̣n trẻ, ta hy vọng cháu sẽ có sự
nghiệp như tể tướng Phương-Dung thời Lĩnh-Nam.
Vua Bà phong cho Toàn Huy chức Trung-nghĩa đại tướng quân. Huy lạy tạ. Bà hỏi:
_ Ta nghe cháu kết bạn với bốn người nữa thành năm người xưng là Quảng-Đông ngũ
cái, đều đỗ Tiến-sĩ, duy chỉ ḿnh cháu xuất ra làm quan là tại sao? Họ hiện ở đâu?
_ Tâu năm đứa chúng cháu đều là người Việt kết bạn với nhau theo thứ tự là Đinh
Nho-Quan, Phạm Đ́nh-Huy, Phạm Văn-Nhân, Hồ Liên-Biện, Đặng Vũ-Nùng. Chúng cháu
đỗ Tiến-sĩ cùng khoa. Tống triều bổ nhiệm làm quan nhưng tất cả đều khinh thế,
ngạo vật chối rằng: Thà đi ăn mày chứ không làm quan với Tống. V́ vậy nhân sĩ
Nam phương gọi chúng cháu là Quảng-Đông ngũ cái, tức năm tên ăn mày vùng
Quảng-Đông. Sau v́ bị nghi ngờ, chúng cháu quyết định một người hy sinh ra làm
quan. Anh em rút thăm, cháu bị thua phải xuất chính.
Vua Bà mỉm cười hỏi tiếp:
_ Hành trạng bốn người bạn của cháu ra sao?
_ Tâu, nhỏ nhất là Đặng Vũ-Nùng, có tài cai trị về thuế khóa, về học chính và
nhất là tài an dân. Y có biệt hiệu là Thiên-chung tiên sinh, v́ y uống rượu
không bao giờ say. Ngược lại không cho y uống rượu th́ y chết.
Vua Bà nghĩ thầm:
_ Ta phải mời Đặng ra giúp Trí-Cao, tổ chức học chính cho nước Đại-Nam.
Bà hỏi:
_ C̣n tài năng mấy người kia?
_ Hồ Liên-Biện ngoài văn hay, chữ tốt ra y có tài biện thuyết. Bất cứ vấn đề ǵ,
y cũng có thể nói ngược, nói xuôi mà vẫn có lư. Phạm Văn-Nhân, y có tài về điển
chế, luật lệ, và nhất là tổ chức tế tác.
_ Hay! Thế c̣n Đinh Nho-Quan? Tài Đinh so với cháu ra sao?
_ Đinh đại ca có tài kinh thiên động địa, có thể so sánh với Gia-cát Lượng thời
Tam-quốc, Ngụy Trưng thời Đường Thái-tông, Triệu Tấn thời Tống thái tổ.
_ Cháu ạ! Cháu đă về với Đại-Việt th́ nên giúp Trí-Cao, mời Quảng- Đông ngũ cái
xuất chính, giúp y kiến thiết một nước Đại-Nam hùng mạnh.
Bà ban chỉ đại xá trên toàn ba châu Hoành, Ninh, Củng. Truyền tha tô thuế trong
một năm. Tha thuế cho tất cả những người thiếu nợ mấy năm trước. Dân chúng hân
hoan mừng rỡ vô cùng. Vua Bà ban chỉ dụ:
_ Việc cai trị Hoành-châu, Ninh-châu, Củng-châu ta để cho Nùng phu nhân đảm
nhiệm. C̣n lại Vi Chấn, Thuần-Khanh, Toàn Huy với ta đi trợ chiến Trí-Cao đánh
Ung-châu.
Vua Bà truyền Vi Chấn:
_ Hữu-thiên ngưu vệ thượng tướng quân, cùng trung-nghĩa đại tướng quân đem thú
binh, kị binh đi tiên phong. Thuần-Khanh cùng sư phụ đem bộ binh đi sau. Nhớ
dùng chim ưng liên lạc để tránh ngộ nhận.
Hai đoàn binh tướng lên đường. Trưa hôm đó c̣n cách Ung-châu hơn mười dậm, th́
Vi Chấn thấy xa xa khói bốc lên ngùn ngụt. Ông hỏi Toàn Huy:
_ Cháu thử đoán xem những ǵ đang xẩy ra tại Ung-châu?
-- Khói lên thế kia, ắt trong thành nhiều chỗ cháy. Quân Tống không thể đốt nhà,
v́ nhà là nơi vợ con, anh em chúng ở. Quân Việt ḿnh là quân nhân nghĩa, đi đ̣i
lại dân, đ̣i lại đất, có đâu đốt nhà? Vậy cái ǵ đă xẩy ra? Trong kế hoạch th́
tế tác sẽ đánh chiếm phủ tổng trấn, cho quân ở ngoài vào. Bất quá tế tác đốt phủ
tổng trấn, với một phủ cháy, khói cũng không nhiều thế kia. Cháu đoán rằng...
Vi Chấn thấy Toàn-Huy phân tích chính xác, trong ḷng ông khâm phục người trẻ,
mà tài cao. Ông hỏi:
_ Như vậy th́...?
_ Quân ḿnh đă chiếm được thành. Sau khi chiếm thành, ḿnh dùng cỏ đốt nhiều nơi
cho khói bốc lên, mục đích khiến cho đạo quân cứu Tầm-châu, quân trong thành
Tầm-châu, Đằng-châu kinh tâm động phách mà bỏ chạy hoặc đầu hàng.
_ Cháu đoán đúng.
Hai tướng cùng đội kị mă phi như bay, phút chốc đă tới gần Ung-châu. Xa xa, thấy
cờ Đại-Việt tung bay trên kỳ đài. Nhưng khói trong thành vẫn bốc lên cuồn cuộn.
Hai tướng mừng vô hạn, cho dừng quân ngoài thành, rồi sai người vào loan tin.
Một lát sứ giả ra báo:
_ Nùng hầu kính thỉnh nhị vị đóng quân bên ngoài, rồi vào thành tương kiến.
Hai người theo sứ giả. Nùng Trí-Cao ra trước dinh trấn thủ cung tay:
_ Kính chào Vi sư thúc. Đa tạ sư thúc cứu Thuần-Khanh. Nếu sư thúc chậm trễ th́
cháu đă mất vợ.
Y nói nhỏ:
_ Nói dại, lỡ mà Thuần-Khanh chết, th́ cháu đến theo gương Thái-sư, trọn đời
không nh́n đến người con gái nào khác.
Vi-Chấn khen:
_ Cháu thực là một thiếu niên ṇi t́nh hiếm có. Trong thế gian, những kẻ tham
dâm, hiếu sắc th́ nhiều, c̣n những đấng đa t́nh thực không có mấy.
Vi Chấn hỏi Trí-Cao:
_ Có phải cháu đốt cỏ để làm nát ḷng quân Tống ở Đằng-châu, Tầm-châu không?
_ Sư thúc đoán không sai. Chim ưng cho biết, đám quân Ung cứu viện Tầm-châu vẫn
cầm cự với quân ta. Cho nên cháu đốt cỏ để làm loạn ḷng chúng. C̣n thành
Đằng-châu th́ đă chiếm xong rồi. Nội ngày mai, chúng ta có thể tiến về đánh
Thương-ngô, Phong-sơn được rồi.
Vi Chấn vẫy Trí-Cao ra ngoài, nói nhỏ:
_ Vua bà B́nh Dương có lời dặn cháu: Nhân sĩ Quảng rất nhiều, phải khuất thân mà
thỉnh họ ra giúp, để lập triều đ́nh Đại-Nam. Thôi ta để Toàn Huy lại với cháu.
Ta ra ngoài kiểm điểm binh mă.
Nói rồi ông đứng lên, rời khỏi trướng.
Trí-Cao hướng Toàn Huy kính cẩn hành lễ:
_ Từ lâu, Cao này hằng nghe danh tiên sinh như sấm động bên tai, nên luôn ước ao
có ngày được tương kiến. Hôm nay đây, Cao được thư của vua Bà báo rằng tiên-sinh
về với Đại-Việt, thực lấy làm mừng vô cùng. Nào tiên sinh vào đây, chúng ta bàn
chuyện an dân.
Trà nước xong xuôi, Trí-Cao hướng Toàn Huy:
_ Cao này trẻ người non dạ, tâm trí tối tăm. V́ hoàn cảnh phải tuân lời sư phụ
mà gánh vác trọng trách. Nay gặp tiên sinh là đấng học nhiều, biết rộng, xin rửa
tai nghe lời vàng ngọc của tiên sinh.
Toàn Huy thấy Trí-Cao có cái tư cách của vua Ngô, vua Đinh, hơi giống Cao-tổ nhà
Hán, Hậu-chúa thời Tam-quốc, th́ nghĩ thầm:
_ Người này là một thứ anh hùng thảo dă, nhưng chí thực không nhỏ. Vậy ta cũng
nên giúp y.
Nghĩ thế Toàn Huy đáp lễ:
_ Huy này đọc được dăm ba quyển sách, đâu dám tự nhận là bậc trí tuệ. Nhưng quân
hầu đă hỏi, đành phải trả lời. Trước hết xin quân hầu cho biết cái chí của quân
hầu đă.
Trí-Cao đứng dậy vái liền ba vái, rồi cung cung, kính kính nói:
_ Đời vua Hùng, nước Văn-lang ta tới hồ Động-đ́nh. Khi vua An-dương dựng triều
Thục th́ Tần thống nhất các nước thuộc tộc Hán, rồi sai Đồ Thư vượt sông chiếm
mất phần đất Bắc Ngũ-lĩnh và vùng Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận. Vua An-Dương nhờ
trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung diệt nửa triệu quân Tần, giết Đồ Thư ở Ma-Tần lĩnh.
Nhưng ngài không thừa thắng chiếm lại vùng đất đă mất. Đó là một thời. Ngày nay,
mỗi khi nghĩ lại, Cao thường ứa gan, nghiến răng thống hận, đôi khi phát khóc.
Tuy Trí-Cao chỉ nói mấy lời, nhưng Toàn-Huy cũng biết gă thiếu niên này hào khí
không tầm thường.
Trí-Cao tiếp:
_ Vua An-Dương cả tin người, mà mất nước v́ cái vạ Mỵ-Châu, Trọng-Thủy. Tộc Việt
từ đấy chia ra làm nhiều mảnh. Mảnh nói tiếng Thái gồm Tượng-quận, Lăo-qua,
Xiêm-quốc. Mảnh nói tiếng Chàm gồm vùng Chiêm-quốc. Mảnh nói tiếng Chân sau
thành Chân-lạp. Mảnh nói tiếng Việt pha Hoa gồm vùng Nam-hải, Quế-lâm, nay là
lưỡng Quảng. Mảnh nói tiếng Việt nay là Đại-Việt. Đến thời Lĩnh-Nam, vua Trưng
cùng một trăm sáu mươi hai anh hùng dựng lại nước. Nhưng đúng lúc ta dựng nước,
th́ bên Trung-nguyên triều Đông-Hán lại trung hưng. Quân, tướng non yếu, ít ỏi
của ta, mà phải đối chọi với quân tướng có hơn hai mươi năm chinh chiến, lại rất
đông đảo của Hán. V́ vậy, cuối cùng cũng mất nước. Đó là một thời.
Trí-Cao ngẫm nghĩ một lúc rồi tiếp:
_ Từ khi đức Thái-tổ bản triều lĩnh mệnh trời, đem nhân nghĩa của nho, đem từ bi
hỉ xả của Phật trị dân, khiến cho dân giầu, nước mạnh, người người đều ca tụng
công đức. Nhưng chí của ngài th́ e phía Bắc không lên quá Tả, Hữu giang. Phía
Nam chẳng tới kinh đô Phật-thệ, phía Tây không quá Lăo-qua. Người không nghĩ đến
đ̣i lại lưỡng Quảng đă đành, mà c̣n coi Đại-lư, Xiêm-la, Lăo-qua, Chân-lạp như
những nước khác ngoài tộc Việt. Nhưng rất may...
Y nói gằn từng tiếng:
_ Trong triều c̣n có Khai-Quốc vương, vơ lâm c̣n phái Đông-a, Sài-sơn, Mê-linh,
Tây-vu, Tản-viên, bang Nhật-hồ. Lại c̣n Thuận-Thiên thập hùng, Tân-quy thất
kiệt. Các vị đó đâu phải là người không có tài trí? Thế nhưng sự trải đă hai
mươi năm, bây giờ mới bắt đầu thực hành. Người Hán, ảnh hưởng của Kinh-thư, cho
rằng Nam là Man. Tây là Nhung. Bắc là Địch. Đông là Di đă đành, thế mà các văn
quan Đại-Việt cũng học thói ngu xuẩn, coi khê động như man mọi. Họ coi tộc Nùng
như một thứ dân ngu dốt, không phải người Việt. Cũng may các đại tôn sư vơ nghệ,
Khai-Quốc vương, vua Bà có cái nh́n khác, các vị không chê Cao này ngu dốt, trao
cho lưỡng Quảng. Vậy tiên sinh bảo Cao này phải làm ǵ?
Toàn Huy ngồi ngay ngắn lại, rồi cung tay:
_ Huy này vốn gốc người Việt, thực sự họ Phạm, tên Đ́nh-Huy, nhưng v́ tiềm ẩn,
mà lấy chữ Toàn thay họ; lưu lạc ở vùng lưỡng Quảng, cái sở học về Đại-Việt rất
ít, mà cái học về văn hóa tộc Hán lại nhiều. Trong buổi sơ giao, quân hầu tin
tưởng mà mở ḷng dạ tin nhau, nên tuy biết tài trí không đủ, cũng mạo muội tŕnh
bày.
Y lấy trong bọc ra một tấm lụa, trên vẽ sông ng̣i tám vùng tộc Việt, rồi nói:
_ Ư quân hầu với Thái-sư là muốn thống nhất tộc Việt như thời vua Hùng, vua
An-Dương, vua Trưng, hoặc không được th́ ít ra tám vùng cũng liên hợp lại, để
không bị Tống xâm chiếm. Có phải thế không?
_ Đúng vậy.
_ Trước hết Huy này xin lạm bàn về cái thế của tộc Việt với thiên hạ. Phía Bắc
có Tống, nước văn hiến, người đông, lúc nào cũng nghĩ ḿnh là thiên triều. Trên
từ vua cho đến quần thần đều ảo tưởng thế. Họ coi tộc Việt là Nam-man. Trong khi
đó nho ở Đại-Việt, Đại-lư đă mạnh. Các nho thần không ít th́ nhiều bị ảnh hưởng
thư tịch Trung-quốc, rồi cứ nghĩ Trung-quốc là con trời, ḿnh là Nam-man, nên
sẵn sàng quỳ gối tôn phục. Đây là một trở ngại lớn của Thái-sư, của quân hầu.
Phạm Đ́nh-Huy ngừng lại, rồi nói rất chậm:
_ Tại triều Đại-Việt, th́ Hoàng-đế miễn cưỡng phải để cho Thái-sư Bắc-tiến, chứ
thực sự ngài chỉ an phận từ Tả-giang, Hữu-giang trở xuống. Hóa cho nên trong
triều bọn nho thần mới bắt gió mà cản trở. Cái gă tể tướng họ Dương là một tỷ
dụ. Cũng chính v́ vậy mới có vụ án Bắc-ngạn. Từ vụ án Bắc-ngạn, tiếng đồn ra
ngoài nên bọn Dư Tĩnh, Vương Duy-Chính mới nghĩ đến Nam xâm mà xẩy ra vụ thảm
sát Thăng-long. Nhưng vơ lâm đă phản ứng, hai người họ Dương bị giết, và đưa đến
cuộc Bắc tiến hôm nay. Cái khó của chúng ta không do binh ít thế cô, mà cần phải
thắng được ḷng Hoàng-đế Đại-Việt, thắng được bọn hủ nho trong triều. Nay hai
việc đó coi như xong.
Huy cầm chung trà uống một hớp rồi tiếp:
_ Chiêm, Lào quá nhỏ, lại hay phản phúc theo Tống, v́ vậy ta phải chinh phục.
Chân-lạp ở xa nhưng chí lại không hợp với ta. Xiêm, Thái cùng một mối nguy Tống
đe dọa. Cả hai có thể cùng ta đồng tâm. Đấy là bàn về ta với ta. Ta với Tống.
Nhưng phần lớn các nho thần không biết rằng: Tống gọi Liêu là Khất-đan, là
Bắc-địch, gọi Tây-hạ là Tây-nhung. Nhưng Hạ, Liêu lại giết chết những ngu phu ẩn
trong ḷng nho gia của họ rằng Tống là Thiên-triều. Họ đem quân đánh Tống. Họ
giết chết cái ông con trời trong ḷng vua quan Tống bằng chiến thắng, bằng cách
bắt Tống triều cống, bằng cách nay bắt cắt đất, mai bắt cắt đất.
Trí-Cao đứng dậy chắp tay vái một vái:
_ Đa tạ tiên sinh mở rộng con mắt cho.
_ Nay Hoàng-thượng không muốn trực diện khai chiến đ̣i đất với tống. Khai-Quốc
vương phải nhân danh minh-chủ vơ lâm tộc Việt mà làm. Để sau này có thất bại th́
người gánh chịu, chứ Hoàng-thượng không biết tới. Hóa cho nên quân hầu được
hưởng hết.
_ Cao này thực không hiểu.
_ Quân hầu phải biết rằng phàm làm vua chúa th́ thích quyền hành, thích nước
ḿnh rộng. Vậy mà cuộc Bắc-tiến này, một phầm ba Quảng-Tây về phía Tây trao cho
Đại-lư. Một phần ba phía Bắc trao cho quân hầu. Một phần ba phía Nam trao cho
Thượng-oai.
Trí-Cao hiểu ngay:
_ Cao này quá ngu tối. Phần Quảng-Đông cũng cắt làm ba. Một phần phía nam trao
cho Phong-châu, Lạng-châu. Hai phần phía Bắc trao cho Cao này. V́ thế lănh thổ
lưỡng Quảng tuy cắt đi khá nhiều, nhưng cũng rộng gấp hai Đại-Việt.
_ Quân hầu có biết tại sao Khai-Quốc vương không để lănh thổ mới của quân hầu
nguyên là Trường-sinh trực thuộc Bắc-cương của vua Bà, mà biệt thành nước
Đại-Nam như Đại-lư, Đại-Việt?
_ Đó chính là điều mà Cao này muốn tiên sinh dạy cho.
_ Thời Thuận-Thiên, tộc Nùng bị chia làm hai. Ba động cực Nam là Thảng-do,
Vạn-nhai, Vũ-lặc thuộc Bắc-cương của Đại-Việt. Ba mươi ba động thuộc Quảng-Tây
của Tống. Dù Khai-Quốc vương với Yên-vương thỏa thuận rằng 207 khê động giữa
Tống với Việt thuộc Đại-Việt. Nhưng các biên thần Tống lần lữa áp chế, dụ dỗ
những động chủ, châu trưởng, khiến họ phải miễn cưỡng theo Tống. Sang thời
Thông-Thụy, vua bà B́nh-Dương cùng công chúa Kim-Thành, Trường-Ninh vượt biên
chiếm lại trọn vẹn 207 châu, động. Tộc Nùng thêm ba mươi ba động nữa, thành ba
mươi sáu động. Vua Bà biến mấy khê động Nùng lẻ tẻ thành nước Trường-sinh thuộc
Bắc-biên. Dân Nùng đa số nói cả tiếng Việt lẫn tiếng Quảng, văn tự, phong hóa
cùng với dân Quảng. Vua Bà là người có ḷng quảng đại, cho nên nay đ̣i đất Quảng
người mới chia vùng nói tiếng Thái trở về Đại-lư; vùng nói tiếng Việt về với
Lạng-châu, Thượng-oai, Phong-châu; vùng nói tiếng Quảng thuộc Trường-sinh.
Trường-sinh bây giờ lớn quá, không thể để thuộc Bắc-biên, cũng không thể để
ngang bằng Bắc-biên, mà bằng Đại-lư, Xiêm-la, nên mới thành nước Đại-Nam.
Đại-lư, Xiêm-la đều có vua, ắt Đại-Nam cũng phải có vua. Ai làm vua Đại-Nam xứng
đáng bằng quân hầu? Tức là Thái-sư với vua bà cho quân hầu danh dự lớn hơn chính
vua bà nữa.
Trí-Cao ṿ đầu:
_ Cao này không hiểu sao Thái-sư không để Đại-Nam trực thuộc Đại-Việt, mà đặt
ngang với Đại-Việt, như vậy tộc Việt lại xé thành một mảnh khác.
_ Trí của Thái-sư rất cao. Người sẽ từ từ bỏ Bắc-biên, rồi biến các nước
Phong-châu, Thượng-oai, Lạng-châu thành một nước như Chiêm, Chân, Lăo. Sau này
bàn thống nhất tộc Việt, th́ Đại-Việt cũng chỉ là một nước nhỏ như Đại-Nam,
Đại-lư, Xiêm-la, thêm Chiêm, Chân, Lăo, Phong, Lạng, Thượng. Ta có mười nước,
hợp thành nước Văn-lang hay Lĩnh-Nam cũng được.
Trí-Cao như người ngủ mê mới tỉnh, y đứng dậy chắp tay:
_ Cao này đă hiểu tất cả đại thế thiên hạ. Đa tạ tiên sinh dạy dỗ.
_ Việc Bắc-tiến, Việt ra quân như sét nổ, khiến Tống choáng váng. Việc b́nh được
vùng Lĩnh-Nam chỉ trong sớm tối, bấy giờ quân hầu sẽ lên ngôi vua nước Đại-Nam,
lănh thổ rộng hơn Đại-lư, Xiêm-quốc, Đại-Việt. Nhưng dân số rất phức tạp. Tất cả
đều nói tiếng Quảng như người Nùng, cùng biết rằng ḿnh gốc là người Việt. Nhưng
họ học văn chương, lịch sử, kinh điển Trung-quốc, nên họ tự coi ḿnh như một sắc
dân văn minh, mà coi sắc dân Nùng như man di, mọi rợ; thế mà họ bị sắc dân Nùng
cai trị, v́ vậy tất họ không phục. Không phục th́ họ nổi dậy chống đối. Khi
chống đối mà không đủ sức, ắt họ phải kiếm chỗ dựa. Cái chỗ dựa tốt nhất cho họ
là triều Tống. Thế là Tống lại mang quân xuống đánh, trong hào kiệt nổi lên.
Quân hầu ở không yên.
Trí-Cao hỏi:
_ Như vậy tiên sinh bảo Cao này phải làm ǵ?
_ Không khó. Quân hầu có thấy cái gương Liêu chiếm đất của Tống, mà vẫn cai trị
được đó sao? Trước thời Tống, Lưu Trí-Viễn là người Tây-di chẳng cai trị tộc Hoa
đó ư? Nay dù cho lưỡng Quảng có thực sự là người Hoa đi, quân hầu cứ bắt chước
người Liêu, ta vẫn cai trị họ được như thường. Huống hồ họ là người Hoa gốc
Việt. Người Hoa họ không có tinh thần quốc gia. Tất cả đều là Thiên-hạ. Xưa ai
có đức th́ cai trị họ được, do đó họ không tiếc lời ca tụng Tam-Hoàng, Ngũ-Đế;
không tiếc suy tôn Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang. Nay th́ không cần nữa, ai mạnh
người ấy làm vua. Huy này xin tiến cử quân hầu năm điều.
Trí-Cao cung tay:
_ Xin rửa tai nghe tiên sinh dạy dỗ.
_ Một là khi lên ngôi vua, quân hầu đừng nghĩ ḿnh là vua nước lớn hơn Đại-Việt,
Đại-lư, Xiêm-la. Trong cung cách đối xử với các nước thuộc tộc Việt, quân hầu cứ
tự coi ḿnh như một tước hầu của Trường-sinh, lời lẽ nhún nhường, hậu lễ. Khi
Thái-sư thống nhất tộc Việt, người có đưa ra bất cứ điều kiện ǵ, quân hầu cũng
cứ tuân theo. Như vậy Tống không dám đụng đến Đại-Nam, v́ đụng đến Đại-Nam là
đụng đến tộc Việt.
Trí-Cao vái một vái.
_ Hai là tuyệt đối hậu đăi những huynh đệ, chân tay cũ, cử họ vào những chức vụ
tín cẩn. Có như vậy những người mới sẽ nh́n vào đó mà trung thành, hết tâm, hết
dạ với quân hầu. Hạng Vũ chỉ có tám ngh́n đệ tử thân tín, mà chiếm được
Trung-quốc. Những hào kiệt ở Đại-Việt, Xiêm-la, Đại-lư muốn sang Đại-Nam kiếm
chút công danh, quân hầu phải nhớ rằng họ là người Việt, nên trọng đăi họ.
Trí-Cao hỏi:
_ Nay anh hùng từ Đại-Việt, Đại-lư, Xiêm-la sang giúp, Cao này có nên phong chức
tước cho họ không?
_ Nên. Một người có thể vừa lĩnh chức tước của Tống lại vừa lĩnh chức tước của
Đại-Việt được. Tại sao họ không thể vừa lĩnh chức tước của Đại-Nam với các nước
khác.
_ Xin tiên sinh dạy cho điều thứ ba.
_ Ba là: nay danh sĩ, vơ lâm lưỡng Quảng không ít. Quân hầu dùng hậu lễ mời họ
ra làm quan với Đại-Nam, phong cho mỗi người một chức tước, họ sẽ cho rằng quân
hầu là tri kỷ, ca tụng quân hầu, không c̣n lư do nào chống đối nữa.
_ Cao này nghe nói, tại xứ Quảng này có Quảng-Đông ngũ cái tiên sinh là một. Vậy
mai này tiên sinh có thể cùng Cao, hậu lễ tới cửa của bốn vị kia, mời ra giúp
Cao thành lập nước Đại-Nam không?
_ Huy này xin hết ḿnh.
_ Ngoài Quảng-Đông ngũ cai ra, c̣n rất nhiều anh tài. Bằng như có những người
khinh thế, ngạo vật, nhất định không ra làm quan, th́ phải đối phó như thế nào?
Đ́nh-Huy cười:
_ Quân hầu bịt miệng họ lại. Nay quân hầu dùng lễ đăi hiền tới nhà thăm họ, hỏi
về cách trị nước. Mai gửi quà tặng. Rồi quân hầu ca tụng tài họ. Bấy giờ bên
ngoài tế tác Tống nghi ngờ họ. Trong dân chúng sẽ nói với họ những điều dân ước.
Họ sẽ nói với quân hầu, thế là họ không ra làm quan, mà c̣n giúp quân hầu nhiều
hơn là ra làm quan nữa.
_ Điều thứ tư là, đất lưỡng Quảng mới b́nh định, nước Đại-Nam mới thành lập, cơ
chế chưa vững, không thể áp dụng luật từ bi hỉ xả như bên Đại-Việt, mà phải dùng
h́nh pháp cho nghiêm như thời Đinh. Đợi năm bẩy năm, khi ḷng người đă định, cai
trị vững vàng, bọn du thủ du thực bỏ thói man rợ cũ, bấy giờ ta cải biến luật
dần dần như bên Đại-Việt cũng vừa.
Trái-Cao hỏi:
_ Khi đức Thái-Tổ bản triều vừa lên ngôi, đă truyền bỏ hết luật hà khắc thời Lê
mà ḷng người quy phục. Sao nay tiên sinh lại dạy Cao này phải ban nghiêm luật?
_ Quân hầu nên biết rằng: khi vua Đinh dẹp mười hai sứ quân, ḷng người ly tán,
v́ vậy người đặt ra h́nh pháp cực kỳ khắc nghiệt mà khiến dân yên. Thời đức
Thái-Tổ lên ngôi là lúc ḷng người căm phẫn luật hà khắc của Lê triều, người ban
hành luật từ bi hỉ xả mà được ḷng người. Nay t́nh h́nh lưỡng Quảng, chỗ th́
Nùng, chỗ th́ Hẹ, chỗ th́ Trang, chỗ th́ Mèo, chỗ th́ Hán, mà quân hầu không
nghiêm luật th́ e khó mà trị được.
_ Xin tiên sinh dạy cho điều thứ năm.
_ Năm là việc tổ chức quân đội. Nước Đại-Nam, Tây giáp Thục, Đại-lư. Nam giáp
Đại-Việt, Đông giáp biển, Bắc giáp Tống. Mặt Tây, Nam th́ không sợ, mà chỉ pḥng
mặt Đông, mặt Bắc. Mặt Bắc, ta cố giữ núi Ngũ-lĩnh. Mặt Đông ta tổ chức thủy
quân thực mạnh. Mô thức tổ chức quân đội, nên theo Đại-Việt.
Đến đó thân binh báo:
_ Xa giá vua Bà tới Ung-châu.
Trí-Cao sai phát pháo, dàn giáp kinh ra ngoài thành đón. Dân chúng Ung-châu đă
nghe vua Bà là Quan-thế-âm giáng thế, nên họ thắp hương mà đón. Trong tâm tư các
quan lại, binh tướng, cùng dân chúng Ung-châu lo lắng không ít về cuộc đổi đời.
Họ biết rằng Trí-Cao là tướng đánh thành, nhưng tính mệnh tù binh, quan lại Tống
lại do vua Bà quyết định.
Vua Bà thân thăm hỏi các bô lăo, rồi truyền cho tập trung quan lại, binh tướng
dù đầu hàng hay bị bắt đứng ở trước dinh trấn thủ. Bà đứng lên đài cao, vận nội
lực nói lớn:
_ Thưa các vị bô lăo, kỳ hào, nhân sĩ cùng tất cả chư tướng binh. Quân Đại-Việt
vào Ung-châu không phải để chiếm đất, cướp của, mà chỉ muốn đ̣i lại lĩnh địa của
tổ tiên đă bị mất. Các vị đây, có vị nói tiếng Hoa, có vị nói tiếng Quảng, có vị
nói tiếng Việt. Nhưng tất cả đều là người Việt.
Dân chúng vỗ tay hoan hô.
-_ Vậy việc đầu tiên, hoàng đế Đại-Việt ban chỉ: kể từ ngày hôm nay, xá mọi thứ
thuế trong ṿng một năm.
Dân chúng lại reo ḥ.
_ Về quan lại, tướng, binh của lưỡng Quảng, ai muốn làm việc với Đại-Việt, th́
cho giữ nguyên đẳng trật, cho hưởng lương bổng như quan lại Đại-Việt.
Dân chúng vỗ tay reo ḥ.
_ Tha tất cả tù, dù thành án hay chưa. Binh, tướng lưỡng Quảng bị bắt hay dầu
hàng đều được ân xá. Ai muốn ở lại, th́ cho giữ nguyên đẳng trật. Ai không muốn,
th́ cho về nguyên quán.
Sau hơn hai tháng, th́ tin tức cho biết đạo Hoa-sen đă tiến chiếm xong
Linh-lăng, đổ lên núi Ngũ-lĩnh. Hoa-sen vương Lê Văn họp cùng công chúa
Trường-Ninh, pḥ mă Thuận-Tông chỉnh bị binh mă để tiến xuống chiếm Đàm-châu,
cùng hồ Động-đ́nh.
|