Niên hiệu Thiên-cảm Thánh-vũ thứ 5 ( Mậu-Tý, 1048 ), đời vua Lý Thái-tông, mùa
Thu tháng tám, ngày Giáp-Thân bên Tống nhằm niên hiệu Khánh-lịch thứ tám đời vua
Nhân-tông. Suốt mấy đêm công chúa Bảo-Hòa, chưởng môn phái Tản-viên cùng các trưởng
lão nghiên cứu thiên văn. Nào quan sát thiên tượng, nào so sánh chư tinh, rồi
quyết định: Thiên tượng cực tốt cho việc Bắc-tiến, vì các tinh ứng với vua, cùng
đại thần Tống đều lu mờ. Trong khi chư tinh ứng với bản mệnh vua, đại thần, tướng
soái tộc Việt sáng chói.
Đúng lúc đó chim ưng của tế tác Đại-Việt báo: sứ đoàn Hoàng-Giang cư sĩ sẽ
triều kiến vua Tống vào ngày Đinh-Hợi. Sứ đoàn Dư Phi đã trở về an toàn. Lại có
tin của tế tác do Trần Phụ-Quốc gửi về:
"... Triều Tống chia làm hai phe tranh cãi nhau kịch liệt. Phe chủ hoà đổ hết
lỗi lên đầu phe chủ chiến. Phe chủ chiến cho rằng bọn Vương Duy-Chính, Dư Tĩnh,
Ky Mân, Dương Điền, Tôn Miễn hành sự vụng về để bị lộ âm mưu Nam tiến, trong khi
Tống chưa chuẩn bị xong. Triều đình sai sứ xuống lưỡng Quảng để lo giảng hòa...
"
Công chúa khẩn triệu tập Bắc-tiến đạo, hành doanh mã-bộ-quân tổng lĩnh (sử thường
gọi tắt là Bắc-tiến tổng hành doanh), để cùng các quan tham mưu duyệt xét lại
tình hình cuối cùng: nào tin tức Tống triều, nào tin tức các phủ huyện, châu
quận Lưỡng-Quảng, nào tình hình binh tướng Đại-Việt, nào việc tồn trữ vận chuyển
lương thảo.
Sau cùng công chúa sai thư lại viết lệnh, truyền Hoàng Tích bỏ vào ống dưới chân
chim ưng. Đến giờ Dần, công chúa đích thân ra sân tung lên trời hai mươi chim ưng.
Mỗi con bay về một phương, dưới chân chúng đều mang bức thư. Một trong những bức
thư đó tới động Trường-sinh vào giờ Mão. Khu-mật viện Trường-sinh tiếp thư, vội
đánh thức Trường-sinh hầu Nùng Trí-Cao dậy. Trí-Cao cung kính mở thư ra, trong
vỏn vẹn có mấy chữ:
Ngày Quý-Tỵ, giờ Dần.
Trí-Cao vội ăn sáng, rồi đến Khu-mật viện, đích thân thảo lệnh, triệu hồi khẩn
cấp các tướng tá, động chủ, châu trưởng về họp. Giờ Ngọ, tất cả đều có mặt, vừa
lúc đó vua bà Bình-Dương, phò mã Thân Thiệu-Thái, Hoa-sen quận vương Lê Văn, phò
mã Hà Thiện-Lãm, công chúa Trường-Ninh đều tề tựu. Trí-Cao sai kiểm điểm lại
việc canh phòng, rồi trịnh trọng đứng lên nói:
_ Thưa các vị, ngày mà chúng ta chờ đợi đã tới. Sư phụ ban lệnh giờ Dần ngày
Quý-Tỵ thì xuất quân. Tổng chỉ huy ba đạo quân là vua Bà. Quân sư là sư huynh Lý
Thường-Kiệt của tôi.
Lý Thường-Kiệt cùng Thuần-Anh, Thuần-Khanh từ trong đi ra. Ba người đến trước
vua Bà hành lễ. Vua Bà thấy Thường-Kiệt, Thuần-Khanh thì giật mình hỏi:
_ Hai con từ đâu tới đây? Đến từ hồi nào?
Thuần-Khanh cúi đầu:
_ Thưa sư phụ, chúng con từ núi Tản mang lệnh của tiên cô qua từ đêm trước.
Đã lâu rồi, nghĩa là từ ngày xẩy ra vụ án Bắc-ngạn, triều đình Trường-sinh đều
nghe nói nhiều về Thường-Kiệt. Nào Thường-Kiệt đầy lòng hiệp nghĩa, dùng võ công
đánh anh em họ Dương cứu Nùng Trí-Cao. Nào thân mẫu Thường-Kiệt là sư muội của
phu nhân Nùng Tồn-Phúc. Nào Thường-Kiệt dạy võ công cho Trí-Cao. Nào cũng chính
vì Thường-Kiệt cứu Trí-Cao mà Dương hoàng-hậu, cùng Vương phi thái-tử ám hại bằng
cách bỏ thuốc mê, rồi đem thiến. Nay họ thấy Thường-Kiệt ở hẳn trong động Trường-sinh,
thì mọi người đều vui mừng rằng mình thêm một nhân tài trợ giúp.
Nguyên từ sau thảm cảnh Thường-Kiệt bị tĩnh thân, Thuần-Khanh với chàng bị mất
tích đến nay mấy năm, mặc dù triều đình ra công tìm kiếm, nhưng vẫn không thấy
hai người đâu. Bây giờ vua bà Bình-Dương nghe nói hai người đến từ núi Tản thì
nghĩ rằng chúng được Bảo-Hòa đưa về đó ẩn thân.
Thuần-Anh hướng vua Bà:
_ Công chúa điện hạ. Vì bảo đảm an ninh cho tính mệnh Thường-Kiệt với Thuần-Khanh,
chính mụ già này tuân lệnh tiên cô đón chúng về núi Tản dưỡng bệnh. Sau lại tuân
lệnh tiên cô làm lễ cưới cho Thuần-Khanh với Trí-Cao. Nghĩ Thuần-Khanh là đệ tử
của công chúa, mà lão không cáo với công chúa thực có lỗi lớn, nhưng tiên cô
cấm, nên lão già này đành chịu.
Vua Bà cầm tay Thuần-Khanh:
_ Việc trăm năm của con do tiên cô lo cho thì thực ta cầu mà không được.
Khai-Hoàng vương tiến đến nắm tay Thường-Kiệt:
_ Thằng con nuôi thối tha này. Từ hôm người bị nạn đến giờ người biệt tăm. Ta ăn
không ngon, ngủ không yên. Nhiều lần ta khóc vì tưởng người chết rồi, hóa ra người
ẩn ở trên Tản-lĩnh. Sau trận này, người mà không về ở với ta, ta quyết... ta quyết
không nhìn mặt người nữa.
Thường-Kiệt thấy tình cảm của sư thúc, chàng cũng rơi nước mắt:
_ Sư thúc tha tội. Vì cháu ở cạnh sư phụ. Mà sư phụ cấm không cho cháu xuất hiện,
nên nào dám về gặp sư thúc.
Thường-Kiệt bước lên trướng, rồi cung tay hành lễ với vua Bà:
_ Thưa sư thúc, con xin nghe chỉ dụ của sư thúc.
Vua Bà nói:
_ Trước đây tiên cô ban lệnh cho đạo quân Trường-sinh đánh ngược lên Liễu-châu,
Quế-lâm, sau đó chiếm Ngũ-lĩnh, rồi án binh tại đây, không cho Tống đem quân cứu
Lưỡng-Quảng. Nhưng đó là hư kế, vì sợ tế tác Tống biết được. Thực sự kế hoạch
khác hẳn. Hôm nay Thường-Kiệt sẽ trình bầy với các vị.
Thường-Kiệt vẫy tay ra hiệu, hai đệ tử Tản-viên mang ra một trục lụa lớn bằng
cái chiếu, trên ghi chú đầy đủ đường xá, sông ngòi, cùng thành trì, nơi đồn trú
quân cùng chỗ chứa lương thảo của Tống. Bản đồ này Trí-Cao đã tốn không biết bao
nhiêu công sai tế tác đi sưu tầm mấy năm liền.
Thường-Kiệt chỉ lên bản đồ:
_ Kế hoạch hành quân này do chính sư phụ tôi soạn thảo rất chi tiết. Nay tôi xin
truyền lại. Cánh quân của sư thúc Lê Văn sẽ xuất phát từ Điền-đông, thình lình
tiến lên vượt sông Giang-thủy đánh Liễu-châu. Liễu-châu là châu trị của toàn
vùng Quảng-Tây. Tại Liễu-châu, Tống có khoảng năm nghìn quân. Nhưng ta đổ quân
vào như sét nổ, ắt chúng không chuẩn bị kịp. Sau khi chiếm Liễu-châu, thì tiến
lên chiếm Quế-châu sau đó chiếm Linh-lăng. Sư thúc chỉ đánh ba thành lớn thôi.
Còn những thành, đồn nhỏ thì bỏ qua. Khi tới Ngũ-lĩnh thì sư thúc toàn quyền
quyết định vượt lĩnh đánh Trường-sa hay án binh bất động.
Lê Văn cau mày:
_ Lệnh của sư phụ con bắt ta thi hành hơi mạo hiểm. Ta tiến nhanh như vậy, dọc
đường có tới chín thành nhỏ. Chúng chặn đường tiếp tế lương thảo thì ta ắt gặp
hung hiểm.
Thường-Kiệt cung tay:
_ Sư thúc cẩn thận như vậy thực phải. Nhưng giờ này các đội đệ tử Đông-a đang ẩn
thân ngoài những kho chứa lương thảo của Tống. Khi sư thúc chiếm thành lớn rồi
bỏ lại thành nhỏ thì công chúa Trường-Ninh với phò mã Hà Thiện-Lãm tiến theo
sau, thanh toán các đồn này. Đệ tử Đông-a sẽ làm nội ứng giúp công-chúa với
phò-mã chiếm các kho lương thảo. Đại sư bá Trần Phụ-Quốc thân chỉ huy tế tác
giúp sư thúc.
Lê Văn hỏi:
_ Tất cả những đồn nhỏ dọc đường từ đây đến Ngũ-lĩnh ta không sợ cho lắm. Duy
hai châu Điền-đông, Liên-thủy, mỗi nơi Tống có ba nghìn quân trấn đóng, với viên
huyện lệnh và viên chỉ huy sứ, là ta ngại nhất.
_ Thưa sư thúc, sư phụ cháu định sẵn:
Trấn-võ đại tướng quân, Vũ-dương hầu Tôn Quý cùng phu nhân Phùng Kim-Thanh đồng
xuất phát với sư thúc. Ngay buổi sáng sớm, hầu đánh úp Điền-đông, rồi để cho phu
nhân tổ chức cai trị. Còn hầu tiến cùng sư thúc. Đến Liên-thủy, trong khi hầu
đánh huyện này, sư thúc vẫn cứ tiến quân.
Dư Phi thêm vào:
_ Khi đi sứ, cháu chú ý, thấy quân sĩ của Liễu-châu đóng làm ba khu vực ở trong
thành. Thường ngày một phần ba về làm ruộng. Hai phần ba canh gác. Nhưng thực tế
họ ở lẫn với dân, rất khó tập hợp.
Thường-Kiệt nói với công chúa Trường-Ninh:
_ Công chúa cùng Hà phò mã đem quân đi sau đạo của Lê sư thúc, tiếp quản, trấn
nhậm Liễu-châu, Quế-châu, Linh-lăng, cùng đánh chiếm những đồn ải nhỏ, mà sư
thúc Lê Văn bỏ qua.
Chàng đưa mắt cho Trí-Cao:
_ Nhiệm vụ của đạo Hoa-sen, Thượng-oai coi như phên dậu che cho các đạo quân
đánh Lưỡng-Quảng. Bây giờ tới đạo chính binh của Trường-sinh. Sư đệ Trí-Cao dùng
quân Trường-sinh tỏa về phía Đông, dọc Tả-giang, Hữu-giang đánh thành
Hoành-châu, Quý-châu, Ung-châu, Củng-châu, Tầm-châu, Đằng-châu, Thương-ngô,
Phong-châu, Đoan-châu, Khang-châu. Tới đây sẽ gặp đạo binh của công chúa
Kim-Thành đánh từ Đông về Tây.
Trí-Cao hỏi:
_ Đệ đánh như vậy, thì hông phải còn hàng chục đồn, chúng cắt ngang đường về thì
sao?
_ Sư phụ đã ước tính rồi. Khi sư đệ tiến như vậy thì phía Nam, quân của
Lạng-châu, Phong-châu sẽ đánh chiếm tất cả các đồn hông phải, hông trái cho sư
đệ. Hai đạo này vượt biên chiếm Khâm-châu, Liêm-châu, Khúc-giang, Quảng-châu.
Thường-Kiệt nói với Thiệu-Cực:
_ Bây giờ tới đạo binh đánh Quảng-Đông. Sư phụ định rằng sư bá tổng chỉ huy quân
Phong-châu, Lạng-châu vượt biên đánh Khâm-châu, Liêm-châu lên Quảng-châu, rồi
chiếm Khúc-giang, Triều-dương, Đông-sơn. Sư phụ dạy: sư bá là túi khôn thiên hạ
thêm tài dùng binh của sư thúc Tôn Đản, sư thẩm Cẩm-Thi, sư bá thiết kế lấy.
Vua Bà tiếp lời Thường-Kiệt:
_ Tóm lại chúng ta có năm đạo binh khác nhau. Một là đạo Hoa-sen đánh chiếm
Ngũ-lĩnh. Hai là đạo Thượng-oai đi sau đạo Hoa-sen để chiếm các châu quận mà đạo
Hoa-sen vượt qua, cùng trấn nhậm, tổ chức cai trị vùng Liễu-châu, Quế-châu,
Linh-lăng. Đạo thứ ba là Trường-sinh hành động độc lập, đánh từ Tây sang Đông.
Đạo này hai sư huynh Bảo-Dân, Trung-Đạo cùng Trí-Cao chỉ huy. Tôi với triều đình
Bắc-cương sẽ lĩnh nhiệm vụ an dân. Thường-Kiệt đi theo tôi.
Vua Bà ngừng lại đưa mắt cho Thân Thiệu-Cực; Tôn Đản, Cẩm-Thi; Tôn Mạnh,
Thanh-Nguyên; Lưu Tường. Thiệu-Cực nói:
_ Tôi phụ trách, đánh Quảng-Đông gồm đạo thứ năm là Lạng-châu vượt biển, đánh úp
Khâm-châu, Liêm-châu. Tôn Đản, Cẩm-Thi tổng chỉ huy. Trấn Bắc đại tướng quân
Tản-viên hầu Tôn Mạnh và phu nhân Trần Thanh-Nguyên đánh úp Liêm-châu. Tả-thiên
ngưu vệ thượng tướng quân Lưu Tường đánh úp Khâm-châu.
Quốc-công đưa mắt nhìn Kim-Thành, Thuận-Tông:
_ Đạo thứ năm là Phong-châu, do Kim-Thành, Trường-Ninh chỉ huy vượt biên bằng
đường bộ, đánh tất cả những đồn bên hông phải cho đạo Trường-sinh, rồi chi viện
cho đạo Lạng-châu. Sau khi chiếm Khâm-châu, Liêm-châu thì đạo Phong-châu khoẻ
mạnh tiến lên chiếm Quảng-châu, đạo Lạng-châu ngược lại đi sau tiếp ứng. Tôn
Đản, Cẩm-Thi đánh Khúc-giang, Triều-dương, Đông-sơn, rồi trấn Chương-giang,
không cho quân Tống từ Ngô-Việt đánh xuống.
Vua Bà tiếp lời Quốc-công Thiệu-Cực:
_ Mỗi đạo đều có đội ưng binh. Sau một biến cố thì chuyển thư về Bắc-tiến tổng
hành doanh mã-bộ-quân cho công-chúa Bảo-Hòa, nhưng cũng báo cho các đạo khác
biết để phối hợp hành động. Công-chúa Bảo-Hòa cũng sẽ dùng chim ưng ban những
chỉ dụ, cùng báo về Khu-mật viện.
... Vì tầm mức quan trọng, nên tất cả lục bộ thượng thư của Bắc-biên cùng thư
lại, ký lục đều đặt tại Bắc-tiến tổng hành doanh hầu giúp công chúa Bảo-Hòa.
Riêng triều đình Đại-Việt, Đại-lý, Xiêm-quốc, mỗi nơi đều cử đến tổng hành doanh
một số quan lại để giúp đỡ.
... Thôi, Thường-Kiệt tiếp đi.
Thường-Kiệt nói với Trí-Cao:
_ Sư phụ phụ dạy, tất cả các đạo binh đều là phụ. Đạo Trường-sinh là chính. Sau
này sư đệ là Đại-Nam hoàng đế kia mà. Vậy sư đệ hãy điều quân đi, để có các vị
cao minh hiện diện góp ý giúp sư đệ.
Trí-Cao suy nghĩ một lúc rồi đứng lên nói:
_ Tấu vua bà. Thưa các vị sư bá, sư thúc, sư huynh, sư tỷ. Cùng các sư đệ. Cao
này vốn tài thô trí thiển. May được sư phụ thương yêu dạy dỗ, rồi lại được tiên
cô nhân cảnh côi cút mà ban ơn thu làm đệ tử. Hôm nay được các vị trưởng thượng
ưu ái tin tưởng trao cho nhiệm vụ lớn, thực lấy làm hổ thẹn. Nhưng nghĩ lại:
Nghĩa lớn của tộc Việt là đòi lại đất tổ, vì vậy dù tài hèn trí thiển, nhưng Cao
cũng xin cố gắng hết sức mình. Sư phụ trao cho Cao này nhiệm vụ đánh cắt dọc
Quảng-Tây, Quảng-Đông làm hai. Nay xin đưa ra phương án như sau.
Quần hào tuyệt không ngờ một thiếu niên sơn cước, mà có lời nhún nhường nhưng
lại đầy chính khí như thế. Nhưng thoáng một cái, họ đều hiểu ngay rằng Trí-Cao
được Hoàng-Giang cư-sĩ vừa dạy văn, vừa dạy võ. Gần đây được tiên cô dạy thêm
nữa.
Trí-Cao chỉ lên bản đồ:
_ Các đạo Trường-sinh, Phong-châu, Thượng-oai, Lạng-châu phát xuất một lúc, cùng
đánh thực mạnh như sét nổ, tất toàn thể Lưỡng-Quảng rúng động, đám quan quân
Tống kinh hồn táng đởm. Toàn Lưỡng Quảng thì trị sở là Quế-châu, Liễu-châu bị sư
thúc Lê Văn đánh. Còn trị-sở các thành dọc Nam-biên là Ung-châu thì do
Trường-sinh đảm trách. Trị sở các thành phía Quảng-Đông thì đặt ở Quảng-châu,
mặt này do Lạng-châu, Phong-châu đảm trách. Vậy cần tiến công Ung-châu trước. Có
như thế lệnh từ Quế, Ung không tới các thành khác. Ngược lại cấp báo các thành
khác không tới được Quế, Ung. Chính Cao sẽ đảm trách công Ung. Nhưng Ung là hư,
chỉ đánh cầm chừng. Còn thực là các thành khác. Khi chiếm xong các thành khác
thì Ung biến thành thực.
Y hướng Thiệu-Cực:
_ Phía Đông, đạo Phong-châu, Lạng-châu đánh Khâm-châu, Quảng-châu, trấn mặt Đông
cho Trường-sinh. Nay Trường-sinh xin ra quân như sau.
Trí-Cao hướng Thuần-Anh:
_ Hoành-châu ở gần nhất, ta cần ra quân chớp nhoáng. Trong thành đã có anh em đệ
tử Đông-a chờ đợi. Vậy chính mẫu thân, âm thầm xuất quân trong đêm, sao cho đúng
giờ Dần thấy trong thành có tiếng reo hò, có khói bốc lên là lúc anh em đệ tử võ
phái đánh phá dinh trấn-thủ, kho lương, mở cổng thành. Ta ập vào chiếm lấy. Sau
khi chiếm Hoành-châu, mẫu thân bắt dân binh Tống theo phục dịch binh mình, rồi
tiến lên đánh Quý-châu (Ninh-châu). Xin mẫu thân cho biết cần bao nhiêu quân?
Thuần-Anh nói:
_ Trong thành Hoành-châu có ba nghìn quân, gồm một nghìn kỵ, hai nghìn bộ, cùng
năm nghìn dân phu. Nếu ta đánh sớm, chúng còn ngủ. Dù chúng có thức dậy cũng mất
một giờ tập hợp cùng phản ứng. Vì vậy không cần nhiều quân. Ta chỉ xin cho ba
nghìn nữ binh, một trăm hổ, một trăm báo, một trăm sói. Không cần voi. Về thành
Quý trong thành có ba nghìn quân toàn bộ binh. Sau khi Hoành-châu mất Quý-châu
rung động, chỉ cần dùng hư binh cũng khiến cho chúng kinh hồn bỏ chạy. Có điều
tướng trấn thủ là Đức Quang, hữu dũng vô mưu, nhưng võ công y cực kỳ cao thâm,
mụ già này không thể là đối thủ của y.
Thuần-Anh chỉ vào tuổi năm mươi, nhưng bà xưng là gìa, làm mọi người đều mỉm
cười. Tuy tiếng nói ôn nhu, nhưng với một thành ba nghìn quân, năm nghìn dân
phu, mà bà chỉ xin có ba nghìn nữ binh, thì ai cũng phục bà can trường.
Trí-Cao hỏi Bảo-Dân:
_ Sư thúc, võ công sư thúc so với Đức Quang thế nào?
_ Ta chưa đấu với y. Nghe đâu y đấu ngang tay với Vương Duy-Chính, Dư Tĩnh thì
phải.
Nghe Bảo-Dân với Trí-Cao đối thoại, Lê Văn ôm gối ngửa mặt lên trời mà cười.
Thường-Kiệt thấy vậy, y hỏi:
_ Sư thúc ! Xin sư thúc cho phương thuốc trừ tên Đức Quang.
Lê Văn đưa ra bình thuốc nhỏ trao cho Bảo-Dân:
_ Sư huynh phải dự cuộc đánh chiếm Ung-châu, Tân-châu, e không thể hiện diện
dùng võ công giết tên Đức Quang, thì bình thuốc này sẽ trị được y.
Trí-Cao hỏi:
_ Nghĩa là???
Lê Văn cười tủm tỉm:
_ Trong thành hiện có người của phái Đông-a, y là chủ quán ăn. Quán của y nổi
tiếng về món chả cá Thăng-long phải không?
Trí-Cao tỉnh ngộ:
_ Phải rồi, Đức Quang là tên thích rượu ngon, thích gái đẹp, thì đêm Nhâm-Thìn
sang ngày Quý-Tỵ chủ quán chỉ việc làm chả cá mời y, rồi bỏ thuốc nhuyễn-cân vào
rượu thì hôm sau mẫu thân bắt y như bắt rùa.
Trí-Cao đưa mắt nhìn vợ:
_ Kế tiếp là Củng-châu. Trong thành Củng có năm nghìn binh, gồm ba nghìn bộ, hai
nghìn kỵ. Thành Củng ta cũng ra binh như thành Hoành, trong thành anh em đệ tử
Mê-linh đã tiềm ẩn, đúng giờ Dần họ chiếm đinh trấn thủ, kho lương, chuồng ngựa,
rồi mở cổng thành cho quân ngoài vào. Vậy Thuần-Anh hãy lĩnh năm nghìn nữ binh,
cùng một trăm hổ, một trăm báo, một trăm sói tiến đánh. Thuần-Khanh có ý kiến gì
không?
Thuần-Khanh hỏi:
_ Tướng trấn thủ Củng-châu là ai? Tài trí y ra sao?
_ Y tên Toàn Huy, nguyên y có tên là Phạm Đình-Huy, khi ứng thí tiến sĩ mới đổi
ra là Toàn-Huy. Y xuất thân là người đọc sách, thi đậu tiến sĩ năm mười chín
tuổi. Tuy y đỗ cao, nhưng không được triều đình trọng dụng. Mãi sau nhờ Yến Thù,
y mới được làm tham quân trong đạo binh của Tần-vương Tự-Mai. Khi vương rời
Bắc-biên về triều, có đề bạt cho y làm huyện lệnh Củng-châu. Võ công y bình
thường, tài dụng binh bình thường, nhưng y là người có tài cai trị. Sau này toàn
vùng Lưỡng-Quảng phải trao cho y.
Thuần-Khanh hỏi:
_ Sau khi chiếm Củng-châu rồi, thì tiểu muội làm gì?
_ Dân Củng nửa nói tiếng Quảng, nửa nói tiếng Việt. Sau khi chiếm xong,
Thuần-Khanh cho tổ chức cai trị, an dân, cùng trấn đóng tại đây. Khanh đắp lại
thành, bố trí cung nỏ thực nhiều, bởi tuy ta ra quân lần này cầm chắc cái thắng
trong tay, nhưng cũng cần bảo vệ con đường rút lui . Nếu như các đạo quân khác
thất thố, ta lấy thành Củng làm địa đầu.
Trí-Cao quay lại nhìn thấy Tĩnh-Ninh ngồi cạnh Trần Anh; Đào Phương-Hồng ngồi
cạnh Tôn Trọng, thì cung kính chắp tay:
_ Nhị vị sư thúc lên tham chiến giúp cháu đã là đại phúc rồi, không ngờ gót ngọc
của nhị vị sư thẩm cũng quang lâm hỗ trợ nữa, với tài Thánh-Thiên, Vĩnh-Hoa của
hai sư thẩm, nhất định cháu sẽ thành công.
Ai cũng ngạc nhiên khi Trí-Cao nói năng cực kỳ văn hoa. Y tiếp:
_ Bây giờ tới cái củ trối thành Ung, xin sư bá Bảo-Dân cho biết tình hình trong
thành.
Bảo-Dân đáp:
_ Thành Ung xây bằng đá ong dầy tới một trượng, trên mặt thành xe cộ, lừa ngựa
đi lại được. Thành cao tới bốn trượng (8 mét). Bên ngoài có lớp hào rộng tới ba
trượng, sâu hai trượng. Dưới hào đầy chông. Bốn cửa thành bằng gỗ lim dầy, bọc
thép. Nếu tất cả các thành khác đều chỉ có quân của địa phương, thì thành Ung là
thành duy nhất có ba đạo quân 441, 442, 443 của Tống đóng tại đây. Tổng số lên
tới ba vạn bộ, một vạn rưỡi kị. Thành Ung là thành mẹ của các thành Nam biên
Tống. Tướng trấn thủ là Ky Mân, văn võ kiêm toàn. Y xuất thân tiến-sĩ, từng làm
tham quân cho Kinh-Nam vương Tự-Mai. Vì y công kích chính sách nhu nhược của
Tống với Liêu nên bị đầy. Chính y thống lĩnh đạo binh 443. Còn đạo 441 do Tống
Kiều thống lĩnh. Võ công Kiều rất cao thâm, y bất mãn với Ky Mân. Ta có thể
chiêu hàng y. Còn tướng thống lĩnh đạo 442 là Hàm Công, tuổi y còn trẻ, võ công
bình thường, nhưng có tài dùng binh, trước đây theo Kinh-Nam vương Tự-Mai chinh
chiến, được tân thăng, đưa về đây.
Trí-Cao hỏi Bảo-Dân:
_ Thưa sư bá, cháu cho tế tác dò la thì biết lương thảo ba thành Hoành, Quý,
Củng để ở Hoành hết. Còn lương tháo của Ung, Tầm, Đằng châu để ở đâu, cháu dò
không ra.
_ Tất cả để ở Tầm-châu. Thành này do Tôn Miễn trấn thủ. Y là quan văn, có tài
dùng binh, võ công cực cao. Y là đệ tử của Bắc-sơn lão nhân phái Hoa-sơn.
Trí-Cao cảm ơn Bảo-Dân rồi nói:
_ Muốn đánh Ung châu, ta dùng hư binh đánh Tầm-châu, để Ky Mân phải đem quân cứu
viện. Ta lại dùng phục binh đánh viện quân, rồi có kế chiếm Ung châu. Nhưng sợ
khi đánh Tầm thì Dương Điền lại đem quân đánh phía sau. Vậy như thế này.
Trí-Cao cung tay nói với Trần Anh:
_ Thành Đằng-châu do Dương Điền trấn thủ. Trong thành có ba nghìn thổ binh. Vậy
sư thúc Trần Anh cùng sư thẩm Tĩnh-Ninh đem ba nghìn quân cùng trăm hổ phục
ngoài thành, ban ngày dùng cờ ngũ hành di chuyển, đêm đánh trống, cho cọp gầm để
làm kế hư binh, hầu cầm chân Dương Điền.
Y cung tay nói với Tôn Trọng:
_ Sư thúc cùng với sư thẩm Đào Phương-Hồng đem ba nghìn quân bộ, một trăm xe bắn
đá đánh Tầm-châu, cần đánh thật rát. Tôn Miễn kinh hãi, ắt đốt phong hỏa đài cầu
cứu với Ky-Mân. Ky-Mân đem quân cứu viện, cháu sẽ có kế chiếm thành Ung.
Trí-Cao nói với Trung-Đạo:
_ Việc đánh thành cháu không kinh nghiệm, vậy xin sư bá dạy cho việc phá
Ung-châu.
Ai cũng biết Trung-Đạo từng làm Tư mã Kinh-châu, chức tới Phiêu-kị đại tướng
quân của Tống, từng đánh dư trăm trận. Tất cả im lặng nghe ông nói.
Trung-Đạo đứng đậy:
_ Ky-Mân trấn thủ Ung-châu. Y từng làm tham quân cho tiểu sư đệ Tự-Mai, nên rất
giỏi việc binh. Về võ công, y là đệ tử của Nam-Sơn lão nhân phái Hoa-sơn, võ
công không thua Địch Thanh. Đường từ biên giới tới Ung-châu mất ít nhất một ngày
đường. Khi ta vượt biên, thì tế tác ắt báo tin về cho Ky-Mân. Y kịp thời tập
trung quân nghênh chiến. Ta không thể đánh úp như các nơi khác. Tốt hơn hết ta
dùng lối dương Đông kích Tây, công thành đả viện. Vậy sư bá sẽ lĩnh ba nghìn
quân bộ, ba nghìn quân kị , một trăm hổ, một trăm báo, một trăm sói, hai trăm
voi phục ở phía Nam thành Ung. Đợi khi Ky Mân đem quân cứu viện Tầm-châu, thì
chặn đường về của y.
Ông nói với Bảo-Dân:
_ Nhị sư huynh cùng đội tế tác nhập thành Ung chờ sẵn. Đợi khi Ky Mân đem quân
cứu Tầm-châu, đang giao chiến với ta thì đánh phá cửa thành Tây. Bấy giờ Trí-Cao
đem quân vào. Giặc bị đánh thình lình ắt rút chạy ra cửa Bắc, ta cho chúng chạy,
chỉ một ngày không lương là quân tan hết.
Thường-Kiệt đứng lên nói:
_ Sư mẫu ban lệnh: tất cả tin tức của các đạo đều báo về Bắc-tiến tổng hành
doanh, cũng báo cho nhau theo hàng ngang để nắm tình hình. Sư mẫu phụ trách cáo
về triều cùng Đại-lý. Về việc tổ chức cai trị vùng chiếm được, hoàn toàn do sư
bá Thiệu-Cực định đoạt.
Vua Bà đứng lên nói:
_ Xin lưu ý quý vị ba điều. Một là tại Kinh-châu, Tống vẫn có trọng binh đóng,
tổng số tới hai chục vạn, chia ra: Xuyên-khẩu năm vạn; Tương-dương năm vạn;
Nam-quận năm vạn; Kinh-châu năm vạn. Ngoài ra họ còn có một hạm đội đóng tại
Giang Bắc; một hạm đội đóng tại hồ Động-đình. Nếu như Tống mạo hiểm, họ có thể
dùng hai hạm đội chở quân đổ bộ vào vùng Quảng-châu, vào cửa sông Bạch-đằng đánh
phía sau ta. Việc này Thái-sư đã có kế hoạch dự phòng rồi. Hai là dọc bờ biển,
Tống có lực lượng hải quân ở Tuyền-châu, Hổ-môn, Khâm-châu, Quảng-châu, tuy
không nhiều nhưng nếu họ tập họp lại, cũng là lực lượng không nhỏ. Ta cần phải
phòng. Ba là khi đánh chiếm các thành, các châu quận ta phải tế nhị với dân. Cần
đi khắp khác thôn xóm nói cho họ biết rằng họ là người Việt, nay trở về với đất
Việt. Họ được hưởng thuế nhẹ, họ được tự trị chứ không do quan Tống từ xa tới.
Ta cần tìm những người có học thức trao cho họ đảm nhiệm cai trị. Những đạo quân
không biết nói tiếng Quảng, chỉ đánh xong rồi rút. Còn những đạo biết nói tiếng
Quảng thì trấn nhậm . Đối với quan lại gốc Tống, người nào đầu hàng, ta vẫn cho
giữ nguyên phẩm trật. Người nào bị bắt thì chở thẳng về Trường-sinh giam, cho ăn
uống tử tế. Một số tham quan bị bắt, cần đem chém cho dân thỏa lòng.
Vua Bà hỏi:
_ Có ai thắc mắc gì không?
Mọi người im lặng. Thường-Kiệt nói:
_ Tấu vua Bà, sư phụ muốn vua Bà cho một trong ba đại tướng Vi Chấn, Lưu Tường,
Hoàng Tích ở cạnh sư phụ để phụ trách điều khiển chim ưng.
_ Vậy Tráng-tiết tướng quân, Tiên-yên hầu Hoàng Tích hãy theo hầu tiên cô. Nhớ
mang theo trăm chim ưng để thông tin với các đạo quân. |