Nhật-Tông móc trong bọc ra tờ giấy trình cho Khai-Quốc vương:
_ Khải nghĩa phụ, đây là tờ giấy nháp của quan tả-bộc-xạ khi soạn bài hịch. Xin
nghĩa phụ kiểm lại xem có phải là bút tích của người không?
Khai-Quốc vương cầm lấy tờ giấy, vương kinh hãi đưa mắt nhìn cháu, trong lòng tự
hỏi:
_ Rõ ràng Tông nhi cùng Kiệt nhi bị tù, mà sao chúng có tờ nháp này trong tay?
Vương hỏi Dương Đức-Thành:
_ Dương tể tướng, phải chăng đây là bút tích của tể tướng?
Tiếp tờ giấy nháp từ tay Khai-Quốc vương, nhà vua nhìn sơ qua cũng biết rõ ràng
bút tích của Dương Đức-Thanh không sai. Ngài vội bỏ vào túi, rồi đưa mắt nhìn
Dương Đức-Thành. Đức-Thành rập đầu xuống đất:
_ Thần thờ trải hai đời vua, con gái thần đã dâng cho bệ hạ một hoàng tử. Nay đứng
trước cái chết của toàn gia có thể xẩy ra dưới tay Ưng-sơn, thần hành sự có đôi
phần hồ đồ, xin bệ hạ cho thần hưởng khoan dung của bát nghị.
Khai-Quốc vương tâu:
_ Quốc trượng ơi! Hoàng thượng là đệ tử của bồ-tát Minh-Không, cô gia là đệ tử
của Quốc-sư; tất cả đều có lòng từ bi hỷ xả. Khi quốc-trượng đã sám hối, thì tội
trạng cũng theo đó mà tiêu trừ. Trước đây chỉ vì hoàng thượng rộng lượng với Đinh
phi, mà Đinh phi bị Ưng-sơn song hiệp chặt đầu. Chỉ vì đức Thái-tổ ân xá cho Vũ-Đức
vương, mà toàn thể Vũ-Đức phủ trên ba trăm người bị Ưng-sơn giết với mấy trăm
ngựa, hơn trăm trâu bò, mấy chục chó mèo, hàng vạn gà vịt. Nay tội trạng quốc-trượng
như vậy, mà hoàng thượng ân xá, thì Ưng-sơn sẽ ra tay ngay.
Dương Đức-Thành quỳ mọp trước Khai-Quốc vương:
_ Xin Thái-sư nể tình hoàng hậu mà cứu thần một phen, nguyện xin kiếp sau làm
thân trâu ngựa báo đền.
Khai-Quốc vương bảo Nhật-Tông:
_ Nếu như quốc trượng Tự-An hay vương phi Thanh-Mai hiện diện thì có thể xin
Ưng-sơn tha cho Dương quốc trượng được. Thôi bây giờ ta đành phải nhờ Bình-Dương
về đây, may ra cứu được toàn thể Dương phủ. Vậy con hãy nghĩ đến hoàng hậu, mà
cùng Kiệt nhi, lấy ngựa phi khẩn cấp lên Bắc-biên gặp chị Bình-Dương trình bầy
mọi việc, rồi mời chị con về ngay mới kịp.
Tạ Sơn tâu:
_ Trong đêm qua, hoàng thượng phát lệnh cho hai đạo Ngự-long, Bổng-nhật với đạo
thiết kỵ Phù-Đổng đuổi theo cha con họ Nùng. Binh pháp của thái-sư rất bén nhậy,
nên khi chỉ dụ ban ra, trong hơn giờ, các đạo binh đã lên đường liền. Thần sợ
giờ này họ đã tới Trường-sinh và có cuộc giao tranh rồi.
Nhà vua nhìn Khai-Quốc vương có ý xấu hổ về vụ thiếu đức minh mẫn của mình:
_ Không sao, nếu họ đuổi kịp, bắt cha con họ Nùng về đây, thì trẫm sẽ phong chức
tước lớn cho họ để đền bù. Trẫm sẽ bắt quốc-trượng tạ lỗi với họ. Vả lại lỗi của
Dương gia không đến nạn nào, mà đến hai người bỏ mạng như vậy cũng đủ rồi.
Nhật-Tông lắc đầu:
_ Thần nhi sợ sẽ có cuộc giao tranh lớn giữa ba đạo binh triều với đạo binh của
Trường-sinh.
Nhà vua hỏi:
_ Trẫm nghĩ rằng khó có cuộc giao tranh. Vì cha con họ Nùng về tới nơi, ít ra
phải một hai ngày mới chỉnh bị binh mã kịp để ứng chiến.
Lý Thường-Kiết quỳ gối:
_ Tâu hoàng thượng, thần nghĩ là có. Bởi lệnh của thái-sư, các tướng lĩnh
Bắc-biên đi đâu cũng phải mang chim ưng theo. Khi cha con họ Nùng bị vây bắt, bị
vu oan, chắc chắn họ phải tự vệ bằng cách làm phản. Họ sẽ sai chim ưng đem thư
về Trường-sinh ngay. Quân của Trường-sinh là quân biên phòng, lúc nào cũng sẵn
sàng ứng trực. Chỉ cần ba hồi tù và là lâm chiến được liền. Bị hàm oan, có thể
đưa đến cái chết cả nhà. Vật cùng tắc phản, uốn quá hóa cong. Đêm qua cha con họ
Nùng trở về, họ phải dấy binh chống lại binh triều.
Cả triều đình đều đưa mắt nhìn Thường-Kiệt với sự khâm phục:
_ Thiếu niên này quả có tài binh bị. Tương lai sẽ sáng đẹp vô cùng.
Khai-Quốc vương nói:
_ Bây giờ thế này, ta cho quan thái-phó Dương-Bình đi cùng hai con. Quan thái
phó là sư huynh của Hoàng-Giang cư sĩ. Mà Hoàng-Giang cư sĩ là sư phụ của Nùng
Trí-Cao ắt cuộc giảng hoà dễ thành công hơn. Nhật-Tông đuổi kịp ba đạo binh của
mình, dù hai bên đang giao chiến thì ra lệnh cho Trịnh Quang-Thạch khẩn cấp lui
binh. Thôi đi ngay mới kịp.
Nhà vua cùng Khai-Quốc vương đứng dậy. Lễ quan hô:
_ Hành lễ.
Nhà vua vẫy tay:
_ Bãi triều.
Nhật-Tông thay y phục thái tử. Thường-Kiệt là con nuôi Khai-Quốc vương, nên
chàng mặc y phục thế tử. Hai người lấy thêm mười quân kị, rồi theo thái phó
Dương Bình lên đường. Tới bến đò Bắc-ngạn, tất cả xuống thuyền thủy quân qua
sông. Dương Bình hỏi Thường-Kiệt:
_ Cháu thử đoán xem người giết Dương Đức-Khai là ai?
_ Thưa sư bá, cháu nghĩ nếu không là sư thúc Thông-Mai thì là sư thúc Tự-Mai.
Dương-Bình chắp tay lạy lên thinh không:
_ Tạ ơn trời Phật, nếu quả Thông-Mai còn sống trên thế gian này, thì ta có thể
xin ân xá cho Dương gia. Chứ Tự-Mai thì y xử theo luật Ưng-sơn mất.
Dương hỏi Nhật-Tông:
_ Ai đưa bản nháp của Dương quốc trượng cho thái tử?
Nhật-Tông chỉ Thường-Kiệt:
_ Thưa thầy, nghĩa tử của con trao cho con đêm qua. Y thực tài, lúc nào y cũng ở
bên cạnh con, mà không biết tại sao y lấy được tờ mật thư đó.
Dương Bình cười ha hả:
_ Thái tử ơi, có gì lạ đâu. Đêm qua, thầy đồ giết chết tên Dương Đức-Khai, rồi y
theo sát bên Thường-Kiệt, cho nên những việc làm của quốc-trượng y biết hết.
Cũng chính y báo mọi tin tức, âm mưu của Quốc-trượng cho Tạ Sơn, nên Tạ Sơn mới
kịp thời thộp cổ bọn gia nhân họ Dương đi dán hịch.
Nhật-Tông tỉnh ngộ:
_ Đa tạ thầy dạy khôn cho.
Chàng hỏi Dương Bình:
_ Thưa thầy, ai tổng chỉ huy cuộc hành binh lên Trường-sinh?
_ Nội-điện chỉ huy sứ Trịnh Quang-Thạch, y mới được thăng thêm chức Bắc-ban chỉ
hậu.
_ Ái chà, y là hoạn quan mới mà.
_ Đúng vậy, nhưng y là nô bộc của Thiên-Cảm hoàng hậu. Khi hoàng hậu tiến cung,
y tự nguyện thiến để làm thái giám.
Nhật-Tông cau mặt lại:
_ Con thấy có điều hơi lạ, xưa nay những cuộc hành binh nhỏ, khẩn cấp như vậy
không do Vũ-kị đại tướng quân Quách Thịnh, thì cũng Hổ-uy đại tướng quân Lý
Nhân-Nghĩa, chứ có đâu đến y. Y chưa từng cầm quân sao có thể khắc địch? Hoặc
giả nếu bảo rằng đây là cuộc nội loạn Bắc-biên thì phụ hoàng chỉ cần ban chỉ cho
một trong ba chị Bình-Dương, Kim-Thành, Trường-Ninh cũng được.
Dương Bình hỏi Thường-Kiệt:
_ Thường-Kiệt thử giải đoán xem.
_ Thưa sư bá, cháu nghĩ thế này, đúng ra mọi việc binh bị do phủ Thái-sư điều
động hết. Nhưng khi Hoàng-thượng được mật tấu khẩn cấp của Dương phủ trong đêm,
thì không kịp báo cho Thái-sư, vì sợ không kịp, nên người phải sai Dương Đức-Uy
đi bắt giặc. Khi Dương Đức-Uy chết, Hoàng-thượng cho rằng thế giặc có thể lớn,
vì trong đó có cả Hoàng-Giang cư sĩ, nên phải cử một người cực thân tín, cực
trung thành. Mà ngay trước mắt chỉ có tên thái giám Trịnh Quang-Thạch, nên sai y
đi. Vả từ trước đến nay y được Hoàng-thượng tin dùng, nhưng vì y là thái giám,
chưa công trạng, nên không thể cho cầm quyền. Nay Hoàng-thượng sai y hành binh,
để sau đó sẽ có cớ phong chức tước lớn cho y.
Chiều hôm đó, ba người đang phi ngựa thì trên đầu có đoàn chim ưng bay lượn, ré
lên. Thường-Kiệt nói:
_ Chim ưng tuần hành của cô Kim-Thành đấy. Chắc cô sắp tới.
Quả nhiên lát sau, phía trước có đội quân khoảng hơn mười người, một thớt voi
với đàn chó sói. Viên đội trưởng vẫy tay hỏi:
_ Ba vị là ai, xin dừng ngựa.
Ba người dừng ngựa. Viên đội trưởng nhận ra Nhật-Tông:
_ Tiểu nhân tham kiến Thái-tử cùng ngài Thái- phó. Tiểu nhân được lệnh đón
Thái-tử với Thái-phó. Công chúa cùng phò mã đang chờ Thái-tử ở gần đây.
Nói rồi y dẫn đường. Nhật-Tông cảm thấy ấm áp trong lòng. Khi chàng mới được bốn
tuổi thì mất mẹ, nên các chị Bình-Dương, Kim-Thành, Trường-Ninh thay mẹ an ủi
chàng. Vì vậy tuy chàng nhỏ hơn các chị mười tuổi, mà chàng cảm thấy như các chị
là mẹ đẻ vậy.
Ngựa phi một quãng nữa, trước mặt, một đạo quân cờ xí, gươm đao sáng choang với
đội hổ, báo, voi, chó sói dàn ra. Đi đầu hai cây cờ lớn. Cây thứ nhất có hàng
chữ Công chúa Kim-Thành, một lá khác có chữ Thái-tử thiếu phó, Phong-châu tiết
độ sứ, long nhương đại tướng quân, Trung-dũng đình hầu Lê. Phía sau, công chúa
Kim-Thành với phò mã Lê Thuận-Tông đang đứng đón. Trong tâm Nhật-Tông, chàng
muốn chạy đến ôm lấy chị gái. Nhưng bây giờ chàng là Khai-Hoàng vương, vâng chỉ
dụ, nên phải đóng vai uy nghiêm. Chàng phi ngựa lên trước nghiêng mình đáp lễ
văn quan võ tướng vùng Phong-châu, rồi mới cùng Kim-Thành, Thuận-Tông vào sảnh
đường.
Trà nước xong xuôi, Kim-Thành hỏi Dương Bình:
_ Dương Thái-phó. Sáng nay Trịnh thái giám cùng ba đạo quân đem chiếu chỉ qua
đây, nói rằng đi tiễu trừ họ Nùng làm phản. Trong đội quân có cả anh trai hoàng
hậu là Dương Đức-Minh với cháu gái y là Dương Hồng-Hạc. Trước kia Bắc-biên hoàn
toàn do cô Lĩnh-Nam Bảo-Hòa tổng trấn. Sau này mới chia làm bốn, ở giữa thì chị
Bình-Dương, phía Tây do Trường-Ninh, phía Đông do tôi, phía Bắc do Nùng
Tồn-Phúc. Từ khi vợ chồng tôi, vợ chồng Trường-Ninh với Nùng Tồn-Phúc đem quân
vượt biên đòi lại được ba mươi động nhỏ thuộc họ Nùng trong tay Tống. Triều đình
trao cho Nùng Tồn-Phúc quản lĩnh, thành vùng Trường-sinh. Cha con họ Nùng khéo
tổ chức khai mỏ vàng, mỏ bạc, chăn nuôi, mà Trường-sinh trở thành vùng giầu có
thịnh trị nhất. Tôi chưa từng thấy y có ý tạo phản.
Phò mã Lê Thuận-Tông tiếp lời công chúa:
_ Vả lại y có phản thì phải chuẩn bị binh mã chu đáo. Trên thực tế, trước kia y
có ba vạn bộ, một vạn kị, năm trăm thớt voi. Mới đây muốn dân giầu, y cho hai
vạn bộ, năm nghìn kị trở về làm ăn. Lại nữa, nếu y làm phản thì phải khởi binh ở
trên này, chứ có đâu kéo về Thăng-long?
Dương Bình thuật lại chi tiết vụ án Bắc-ngạn. Mắt phượng mở lớn, công chúa
Kim-Thành quát lên:
_ Từ mấy năm nay, nghe gã Dương Đức-Thành có ý xung chàng với chú hai, tôi đã
lộn ruột rồi. Bây giờ y muốn truất phế Nhật-Tông để cháu ngoại y lên thay sao?
Có ba điều không thể thay thế Nhật-Tông. Một là Nhật-Tông đã được đức Thái-tổ di
chiếu chỉ định ngồi vào ngôi trừ quân. Hai là đáng lẽ ra ngôi vua về chú hai.
Chú hai không muốn làm vua, nhường ngôi cho con nuôi là em tôi. Vậy ai có thể
thay em tôi? Ba là Nhật-Tông văn võ toàn tài, nhân đức khó ai bì, lại được chú
hai tôi dạy phép cai trị, hành binh, được chị Bảo-Hòa dạy võ, quan Thái-phó dạy
văn. Nếu muốn truất phế ít ra cũng phải được ba sư phụ đồng ý chứ?
Phò mã Lê Thuận-Tông vốn mập mạp, bệ vệ, nổi tiếng là một người ôn nhu. Phò mã
nói:
_ Có phải phụ hoàng tôi hối hận về việc hành binh, nên nhờ quan Thái-phó đem em
tôi đi giảng hoà không? Khổ thực. Sáng nay tên họ Trịnh đem quân qua vùng này,
tôi hỏi chi tiết vụ hành quân, y khệnh khạng không chịu nói, bảo rằng thi hành
mật chỉ.
Về chức tước, Dương Bình lớn hơn Thuận-Tông nhiều. Nhưng Thuận-Tông là phò mã,
lại là biên cương trọng thần, nên Dương Bình cung tay:
_ Chúng tôi chỉ có ba người, sợ rằng khi gặp đạo binh của gã họ Trịnh, y có thể
vô lễ. Xin phò mã cho tôi mượn vài đội binh.
Công chúa Kim-Thành vốn cương quyết, bà đứng dậy nói với Nhật-Tông:
_ Em là trừ quân, lại nhận chỉ dụ của phụ hoàng cùng chú hai, nếu gã họ Trịnh
bất tuân lệnh, em chặt đầu y cho bọn gian thần kinh hãi. Được, để chị đi với em.
Phò-mã Lê Thuận-Tông nắm tay công chúa:
_ Công chúa tính quá cương quyết, e vụ này không có lợi. Vậy một là công chúa ở
nhà để tôi đi. Hai là tôi đi với công chúa.
Cùng một cha mẹ sinh ra, nhưng công chúa Bình-Dương thâm nhiễn Phật-giáo, nên
mỗi hành sự lại đem đức từ bi, hỉ xả ra dung thứ chúng sinh. Cho nên trên toàn
Đại-Việt, người ta coi công chúa như Quan-thế-âm giáng sinh. Còn công chúa
Kim-Thanh lại chỉ học nho, thâm nhiễm triết lý trung quân ái quốc, cùng hành xử
của người quân tử. Ngày mới mười bẩy, mười tám tuổi, khi phải đối trận với chú
ruột là Vũ-Đức vương, công chúa đã đem chính đạo ra thống trách vương, khiến
vương không nói được câu nào. Huống hồ nay việc này.
Từ ngày thành hôn với phò mã Lê Thuận-Tông, trấn nhậm Phong-châu. Trong, công
chúa cùng phò mã mở mang học hành, tổ chức luyện võ, thao dượt sĩ tốt, khuyến
khích nông tang. Ngoài, công chúa liên kết với Ngô-quốc quận vương, thẳng tay
với bọn quan Tống muốn Nam xâm. Những khê động trước kia thuộc Đại-Việt, bị Tống
dùng áp lực bắt động chủ theo họ hoặc chiếm mất; công chúa hành quân chiếm lại.
Những khê, động chủ tham lợi theo Tống, trong bóng tối công chúa cho giang hồ võ
lâm giết chết, rồi cử người khác lên thay, vì vậy công chúa đòi lại được ba mươi
sáu động, sát nhập vào Phong-châu. Công chúa rủ vua bà Bắc-biên Bình-Dương cùng
công chúa Trường-Ninh giúp Nùng Tồn-Phúc chiếm ba mươi động họ Nùng, rồi trao
cho Tồn-Phúc thống lĩnh. Bây giờ nghe Dương quốc trượng lạm quyền vu oan cho
biên cương trọng thần, khiến công chúa nổi lôi đình.
Trời đã tối, công chúa mời Dương Bình cùng Nhật-Tông, Thường-Kiệt ở lại
Phong-châu, sáng hôm sau sẽ lên đường sớm. Văn, võ quan thuộc Phong-châu rời
phòng họp. Bấy giờ Nhật-Tông không còn phải đóng vai ông vua con nữa, chàng mới
có dịp thuật chi tiết vụ án Bắc-ngạn. Chàng chỉ Thường-Kiệt:
_ Kể về lỗi, thằng nghĩa tử của em cũng có đôi chút, bởi nó chụp trúng cái đó
của con quỷ cái Dương Hồng-Hạc, nên mới thành cơ sự.
Kim-Thành phì cười:
_ Tiếc rằng Thường-Kiệt có Thuần-Khanh rồi, bằng không, hỏi con quỷ cái đó cho
nó thì coi như mọi chuyện êm ngay.
Dương Bình đồng ý:
_ Thưa công chúa, tục ngữ nói: trai năm thê bẩy thiếp, gái chính chuyên một
chồng. Như vậy thế tử Thường-Kiệt cưới thêm Dương tiểu thư làm thứ thiếp có sao
đâu?
Nói đến đó ông chợt nhớ lại:
_ À, không ổn rồi, Thường-Kiệt là học trò tiên cô Bảo-Hòa, thành ra chỉ có thể
cưới một vợ thôi.
Kim-Thành nắm tay Thường-Kiệt:
_ Dù con không phải là đệ tử cô Bảo-Hòa mà năm thê bẩy thiếp, khi lên đây chú
Thuận-Tông cũng đánh què. Chú cực kỳ ghét người nhiều vợ. Năm trước triều đình
cử lên một văn quan phụ trách giáo-thụ cho Phong-châu, vì y có ba vợ nên chú
đuổi về.
Phò mã Thuận-Tông cười:
_ Hay là chúng ta tuyển thị cho Nhật-Tông? Dù sao cô thị cũng là hoàng hậu, môn
đăng hộ đối đấy chứ. Thế nhan sắc ả coi được không?
Thường-Kiệt gật đầu:
_ Không bằng cô Thanh-Mai, cô Bình-Dương, nhưng không thua sư bá Khấu Kim-An.
Hiện thị có theo trong quân, mai này thị phải ra mắt cô, cô sẽ biết liền.
Sáng hôm sau, đạo binh Phong-châu phát pháo lên đường.
Đạo binh Phong-châu chia làm ba cánh. Cánh thứ nhất do phó thống lĩnh Phong-châu
Hoàng Tích dẫn năm mươi thớt voi, năm mươi con hổ, năm mươi con báo, nghìn quân
kị đi tiên phong. Kế tiếp trung quân, chính công chúa cùng với Nhật-Tông, Dương
Bình đem theo ba nghìn kị binh, trăm thớt voi. Hậu quân do phò mã Lê Thuận-Tông
vận tải lương thảo tiếp ứng.
Đi đến trưa thì xa xa thấy khói bốc lên, tiếng voi rống, tiếng cọp gầm, trên
trời chim ưng từng loạt lao xuống tấn công, khói bốc lên mịt mù. Hoàng Tích kinh
hãi:
_ Có lẽ quân sĩ hai bên đang giao chiến. Nguy quá.
Hầu vội phi ngựa lên trước, thì thấy đạo Ngự-long đang rút lui trở lại. Đối
diện, đoàn hổ, báo của Trường-sinh cũng ngừng đuổi theo. Đạo Ngự-long thấy phía
sau có quân của Hoàng Tích với voi, hổ, báo, thì cho rằng mình bị đánh tập hậu.
Họ chia lực lượng làm đôi, một phần lo chống với quân Trường-sinh, một phần lo
chống với quân Hoàng Tích.
Hoàng Tích cho dàn quân ra thực mau chóng, rồi phi ngựa lên trước, tay cầm loa
gọi:
_ Ta là Tiên-yên hầu Hoàng Tích, muốn nói chuyện với tướng chỉ huy đạo Ngự-long.
Một thiếu niên phi ngựa tiến ra, y hất hàm hỏi:
_ Tiên-yên hầu Hoàng Tích là ai? Phải chăng là vây cánh của phản tặc Nùng
Tồn-Phúc?
Hoàng Tích đáp:
_ Ta vâng chỉ của Thái-tử cùng công chúa Kim-Thành đem quân lên đây. Tướng kia,
xin cho biết danh tính?
Thiếu niên đáp:
_ Ta là Dương Đức-Hợp, đang tuân chỉ mang quân tiễu trừ phản tặc Nùng Tồn-Phúc.
Hoàng Tích nói lớn:
_ Thái-tử có chỉ dụ, quân triều phải lui lại ngay, không được giao chiến, chờ
Thái-tử tới đã.
Đức-Hợp cười nhạt:
_ Chúng ta tuân chỉ dụ đi dẹp giặc, mà phải nghe lệnh tên ôn con Nhật-Tông ư?
Hoàng Tích hú một tiếng, mười con cọp gầm lên xung vào vây tròn Đức-Hợp. Ông
vung tay, một sợi dây cuốn lấy Đức-Hợp, ông giật mạnh, người y bay khỏi lưng
ngựa rơi xuống đất cạnh ông. Đạo Ngự-long reo hò, nhưng chỉ đứng nhìn.
Lát sau, một võ tướng tới, y thấy Hoàng Tích thì nghiêng mình thi lễ:
_ Đô thống Triệu Hòa, chỉ huy đạo Ngự-long xin tham kiến Hoàng quân hầu. Không
biết quân hầu điều binh mã đi đâu đây?
Hoàng Tích đáp:
_ Tôi thuộc đạo tiền quân của Thái-tử. Thái tử sai tôi lên báo cho các vị chỉ
huy đạo Ngự-long, Bổng-nhật, Phù-Đổng biết: phải lui quân lại, tránh giao tranh.
Triệu Hòa sai một kị mã ra đi, rồi y nói:
_ Tiểu tướng được chỉ dụ điều đạo Ngự-long tuân chỉ Trịnh công công dẹp giặc.
Trịnh công công cho lệnh tiểu tướng đánh vào phía Đông động Trường-sinh. Nhưng
từ sáng đến giờ đã ba lần đạo Ngự-long xung vào đều bị Ưng-binh, Hổ-binh đẩy
lui. Xin quân hầu chờ, tiểu tướng cho mời Trịnh công công tới.
Lát sau Trịnh Quang-Thạch cỡi ngựa tới, cạnh y còn có, Dương Hồng-Hạc. Thấy
Dương Đức-Hợp bị trói tròn, để cạnh mấy con hổ, Quang-Thạch đưa mắt nhìn lá cờ
soái của Hoàng Tích rồi thi lễ:
_ Tiểu nhân được chỉ dụ đem quân vây bắt, tiễu trừ phỉ tặc Nùng Tồn-Phúc, cùng
với Dương công tử. Không hiểu sao quân hầu lại bắt sống Dương công tử, rồi làm
nhục thế kia?
|