_ Nếu là truyện quân quốc trọng sự khác, thì Khu-mật viện trình lên cho
Dực-Thánh vương. Khổ một điều âm mưu tạo phản lại do chính vương phát động,
thành ra Khu-mật viện bó tay. Khi thấy tình hình nguy ngập, Khu mật viện đành
thông báo cho quan tổng trấn Thăng-long là Thái-tử thái phó Phiêu-kị đại tướng
quân Dương Bình. Dương tướng quân mật đàm với Khu-mật viện chuẩn bị đối phó. Kế
sách xong xuôi, thì đùng một cái có sắc chỉ chia mười đạo quân cho các thân
vương. Mỗi vương coi hai đạo. Chính Dực-Thánh vương tâu với Hoàng-thượng rằng
Dương tướng quân dù gì cũng là đại đệ tử của Hồng-Sơn đại phu. Mà nay Khai-Quốc
vương vắng nhà, Hoàng- thượng với tể tướng lâm bệnh, để Dương tướng quân coi
toàn bộ chư quân trong tay, lỡ có truyện gì thì trở tay sao kịp.
Khai-Quốc vương hỏi:
_ Sao sư đệ không trình với sư phụ, để người can thiệp với phụ hoàng?
_ Thần có trình sư phụ. Nhưng sư phụ xin yết kiến Hoàng-thượng mấy lần đều không
thành công. Vì Hoàng-thượng đau nặng, nên luôn ở tẩm thất với Đàm quý phi. Lần
nào sư phụ xin yết kiến Hoàng-thượng, quý phi cũng trả lời rằng thánh thể bất
an, không thể tiếp sư phụ.
Lê Văn hỏi:
_ Tại sao anh hai không thông báo cho phò mã Đào Cam-Mộc, hay vua Bà Bắc biên?
_ Sư đệ hỏi vậy thực phải. Nhưng Khu-mật viện không được quyền thông báo tin tức
cho ai ngoài Hoàng-thượng, Phụ-quốc thái úy, Tể-tướng. Nếu huynh báo cho hai nơi
kia, thì sẽ bị tội sát thân toàn gia.
Đại sư Huệ-Sinh đỡ lời Tạ Sơn:
_ Sau cùng bần tăng ra tay. Dù gì chăng nữa Hoàng-thượng hay bách quan cũng
không thể bắt tội bần tăng. Bần tăng sai đệ tử âm thầm lên Bắc-biên cùng đến
tổng đường các môn phái báo tin. Cho nên khi các đạo quân vừa khởi sự thì
Bắc-biên đã chỉnh bị quân mã rồi. Các phái Mê-linh, Tiêu-sơn, Tản-viên, Tây-vu,
Đông-a, Sài-sơn, bang Hồng-hà, Đông-hải đều sẵn sàng.
Đến đây ông ngừng lời, đưa mắt cho Tạ Sơn, ý bảo chàng tiếp.
_ Lúc đầu Khu-Mật viện tưởng chỉ có chư vương tác loạn. Sau được tin chính
Nhật-Hồ lão nhân cùng dư đảng Hồng-thiết giáo núp sau chư vương, thúc chư vương
làm phản, để nước đục buông câu, rồi cướp ngôi vua. Các trưởng lão được phân
chia làm gia tướng chư vương. Trưởng lão Lê Đức, Đỗ Xích-Thập được gửi sang
Trung-nguyên, bề ngoài theo giúp giáo chủ Thân Thiệu-Thái, nhưng bề trong để
theo dõi sứ đoàn. Nhưng hành tung hai người này bị tiên cô Bảo-Hòa biết trước.
Tiên cô tương kế tựu kế, khiến họ thu nhặt tin tức sai lạc. Cuối cùng cả hai bị
đại hiệp Thông-Mai với tiên cô giết ở trước vườn thượng uyển vua Tống.
Bảo-Hòa hỏi:
_ Các trưởng lão Đào Nhất, Nhị, Tam-Bách ra sao?
_ Cả ba đều trung thành với phái Tản-viên, với Thân giáo chủ. Vì vậy Đào Tam,
Đào Nhị bị giết, còn Đào Nhất-Bách hút bị giết. May đâu trên đường bôn tẩu gặp
Thân giáo chủ nên thoát hiểm. Về các trưởng đạo, trong 81 đạo trưởng Hồng-thiết
giáo, hầu hết trung thành với Thân giáo chủ. Nhưng họ bị kiềm chế bằng độc
chưởng, thành ra phải nhắm mắt theo Nhật-Hồ lão nhân. Khu-mật viện âm thầm liên
lạc với họ. Họ đều hứa nếu Thân giáo chủ trở về, thì khi đối trận với quan quân,
họ sẽ trở giáo theo triều đình.
Tôn Đản hỏi:
_ Điều quan trọng là chúng ta phải biết chi tiết kế sách của Nhật-Hồ lão nhân ra
sao. Xin nhị huynh tiếp cho.
_ Lão áp dụng binh pháp của công chúa Thánh-Thiên thời Lĩnh-Nam: Phàm khi phát
khởi cuộc nổi dậy thì phải phát ở nơi an ninh nhất, nơi ít ai ngờ tới nhất. Một
mặt lão xui các vương làm loạn ở Thăng-long, còn chính lão với Hồng-thiết giáo
lại nổi dậy ở Trường-yên.
Bảo-Hòa ngắt lời:
_ Có phải lão chia làm hai mặt trận không? Mặt hư tại Thăng-long, mặt thực tại
Trường-yên. Mặt Thăng-long lão trao cho Hoàng Văn phụ trách. Còn mặt Trường-yên
lão trao cho Vũ Nhất-Trụ. Chính lão phối hợp hai mặt trận. Nhưng lão ẩn ở đâu?
_ Đúng như tiên cô dạy. Lão lưu động thất thường. Nhưng dù lão ẩn thân thế nào,
Khu-mật viện cũng biết. Hiện lão đang có mặt ở ngoài thành.
Tạ Sơn đưa mắt quan sát một lượt rồi tiếp:
_ Kế sách của lão là hy vọng lúc Hoàng-thượng, tể tướng lâm bệnh, ắt trao quyền
cho Dực-Thánh vương. Khi Dực-Thánh vương cầm quyền, các trưởng lão Nguyên-Hạnh,
Bách-Vân xui Vũ-Đức vương. Trưởng lão Phạm Trạch xui Đông-Chinh vương... bất
tuân lệnh, rồi hai vương vờ quy phục Khai-Thiên vương. Như vậy là Khai-Thiên
vương cũng sẽ bất tuân lệnh Dực-Thánh vương. Bị đe dọa, dù muốn dù không
Dực-Thánh vương phải tự vệ. Trưởng lão Vũ Nhất-Trụ, Đặng Trường, Hoàng Văn lại
bầy kế cho Dực-Thánh vương đem ba hạm đội kéo về Thăng-long, hợp với hai đạo
Quảng-thánh của vương để giữ Thăng-long, thế là quân của chư vương đánh nhau.
Mọi người suýt xoa nghiến răng ken két. Tạ Sơn tiếp:
_ Bấy giờ Hoàng Văn khuyên Dực-Thánh vương sai Đàm An-Hòa đem hai đạo
Quảng-thánh chiếm Trường-yên. Khi An-Hòa lên đường, Nhất-Trụ sẽ nắm lấy quyền
chỉ huy hai đạo Quảng-thánh, bất thần diệt trang Thiên-trường, tổng đàn phái
Đông-a. Mặt khác Nhất-Trụ sai con là Đàm Toái-Trạng dùng lực lượng Nam-thùy xuất
kỳ bất ý đánh tiêu diệt Vạn-hoa sơn trang, Vạn-thảo sơn trang, rồi nhân danh
Dực-Thánh vương đánh chiếm các trấn, các huyện. Hễ cứ quan quân đánh được vùng
nào, Nhất-Trụ ra lệnh giao cho Hồng-hương thiếu niên cùng các đạo Hồng-thiết
giáo trấn nhậm. Lão ước tính trong khi Dực-Thánhh vương cùng chư vương đại
chiến, cuối cùng dù bên nào thắng chăng nữa thì tinh lực cũng kiệt quệ. Bấy giờ
tất cả các trấn, các huyện nằm trong tay Hồng-thiết giáo. Đến đây lão chỉ trở
tay một cái là chiếm được Thăng-long. Lão sẽ lên làm vua.
Tạ Sơn thở dài:
_ Khu-mật viện vội vã diện tấu lên Hoàng-thượng. Nhưng khi thần nhập cung tấu
trình thì Hoàng-thượng lâm bệnh. Thần vội sang dinh tể tướng Lý Đạo-Nghĩa, thì
Lý tể tướng cũng bất thần bạo bệnh đang cơn hấp hối.
Tạ Sơn ngừng lại đưa mắt nhìn vợ là Ngô Thuần-Trúc. Thuần-Trúc nói:
_ Thần quá lo sợ, vội về Mê-linh cầu kiến sư phụ. Nhưng lão nhân gia lại vắng
nhà. Thần tâu mọi sự lên sư thúc Tịnh-Huyền. Vừa lúc đó sư thúc được thư cáo của
Khai-Quốc vương, nhờ người đem chư đệ tử về phòng vệ cho hoàng tộc. Người bèn
suất lĩnh hơn trăm nữ đệ tử về Thăng-long, cho sống lẫn với cung nga, để kịp
thời cứu viện. Sư thúc vào tẩm thất thăm Hoàng-thượng. Đàm qúy phi ngăn cản
không cho người vào. Đúng lúc đó Hoàng-thượng cho thái giám lĩnh chỉ tuyên triệu
Dực-Thánh vương vào chầu để nhận chiếu ủy quyền trị nước. Biết không đừng được
sư thúc xông thẳng vào cung diện kiến Hoàng-thượng tâu mọi sự. Bấy giờ
Hoàng-thượng bệnh đã gần mê man. Sư thúc xin Hoàng-thượng triệu hồi Khai-Thiên
vương vào trao quyền, thay vì triệu hồi Dực-Thánh vương. Hoàng-thượng đã quá
yếu, Người chỉ còn biết gật đầu. Sư thúc sai thái giám ra triệu hồi Khai-Thiên
vương vào tạm trao quyền nước cho vương, để chờ Khai-Quốc vương về. Khi-Thiên
vương cầm quyền được một ngày, Khu-mật viện mật khải với vương về việc âm mưu
của Hồng-thiết giáo. Khai-Thiên vương kinh hãi, vội cho điều hai đạo Ngự-long
vào trong thành để đề phòng. Việc phòng Kinh-thành trao cho quan Thái-tử
thiếu-phó Phiêu-kị đại tướng quân Dương Bình. Xin để Dương Thiếu-phó trình bầy
kế hoạch.
Dương Bình đứng lên nói:
_ Tôi truyền cho Tả-kiêu vệ đại tướng quân Lý Huyền-Sư chỉ huy đạo hữu Ngự-long
trấn cửa Đại-hưng, Đan-phượng. Nhờ Nùng đạo trưởng chỉ huy đạo tả Ngự-long trấn
cửa Quảng-phúc. Lại cho Hổ-uy đại tướng quân Lý Nhân-Nghĩa lĩnh Cấm-quân trấn
cửa Phi-long, Tường-phù. Tạ tiết độ sứ lĩnh thị vệ trấn cửa Diệu-Đức. Sư thái
Tịnh-Huyền cùng chư đệ tử Mê-linh bảo vệ hoàng tộc. Đại sư Huệ-Sinh cùng chư đệ
tử Tiêu-sơn bảo vệ các cung điện, bách quan cùng gia quyến.
Tạ Sơn tiếp:
_ Mặc dầu sư thái Tịnh-Huyền đã ngăn việc tuyên chỉ triệu Dực-Thánh vương, giữ
chiếu chỉ lại, nhưng không hiểu sao, sau đó hai ngày, chiếu lại đến tay
Dực-Thánh vương. Dực-Thánh vương nhận được chiếu chỉ tuyên triệu. Vương mừng
lắm, truyền sắm sửa xa giá vào cung. Vương mang theo Đặng Trường, Hoàng Văn cùng
với đám vệ sĩ hơn trăm người, hầu hết là cao thủ Hồng-thiết giáo. Khi vương tới
cửa Đại-hưng thì Tả-kiêu vệ đại tướng quân Lý Huyền-Sư ngăn đám vệ sĩ của vương
lại. Vương cự nự hỏi Lý tướng quân nhận lệnh ai, mà dám ngăn vương. Lý tướng
quân tường thuật việc Hoàng-thượng trao quyền cho Khai-Thiên vương. Vương đã cho
quân trấn các cửa thành. Dực-Thánh vương muốn vào, thì chỉ có thể vào một mình.
Từ lúc nhận được tin chư vương phản loạn, Khai-Quốc vương có cảm tưởng như người
đi trong sương mù. Bây giờ vương mới hiểu rõ vấn đề. Vương gật đầu:
_ Dực-Thánh vương được chiếu chỉ triệu hồi vào cung nhận quyền, rồi bị quân tuân
lệnh Khai-Thiên vương ngăn lại, tất nhiên vương cho rằng Khai-Thiên vương làm
phản. Với một người tham quyền như Dực-Thánh vương, dĩ nhiên vương triệu tập chư
vương đem theo vệ sĩ cùng nhập thành. Vệ sĩ của chư vương bị ngăn lại. Chư vương
trở về trong tức giận, thêm vào các trưởng lão Hồng-thiết giáo đâm bị thóc chọc
bị gạo. Thế là các vương kéo quân vây kinh thành. Sự việc rất bình thường. Thế
sau biến cố này, Nhật-Hồ lão nhân hẳn đổi phương án hành động.
_ Vâng quả thế. Hoàng Văn bầy kế cho Dực-Thánh vương. Vương nhân danh người nhận
chiếu chỉ lệnh đến: Đông-Chinh vương truyền cho Vũ-kị đại tướng quân Quách Thịnh
đem hai đạo Bổng-nhật đánh cửa Quảng-phúc. Vũ-Đức vương truyền Đô-thống Nguyễn
Khánh đem hai đạo Quảng-vũ đánh cửa Phi-long, Tường-phù. Đô đốc Đoàn Thông đem
hạm đội Động-đình đánh cửa Diệu-đức. Chính vương truyền cho Hữu-kiêu vệ đại
tướng quân Đàm An-Hòa đem hai đạo Quảng-thánh đánh cửa Đại-hưng, Đan-phượng.
Nhật-Hồ lão nhân phân chia bọn trưởng lão ra các cửa thành giúp chư vương. Mỗi
trưởng lão mang theo một đội thiết kị Hồng-thiết giáo nghìn người, đội giáo
chúng hai nghìn người cùng đội Hồng-hương thiếu niên nghìn người nữa. Cửa
Quảng-phúc thì Phạm Trạch, Linh Vũ-Nguyên. Cửa Phi-long thì Nguyên-Hạnh, Nguyễn
Khánh. Cửa Tường-phù thì Ngô Bách-Vân, Thạch Nan-Biện. Cửa Đại-hưng thì Vũ Hào,
Hoàng Văn. Cửa Đan-phượng thì Đặng Trường. Cửa Diệu-đức thì Lê Tấn.
Tôn Đản hỏi:
_ Lê Tấn, Linh Vũ-Nguyện, Thạch Nan-Biện, Vũ Hào là ai vậy?
_ Y cũng là đệ tử Nhật-Hồ lão nhân. Nguyên sau khi bọn Đỗ Xích-Thập, Lê Đức bị
giết chết ở Biện-kinh, lão cho Linh Vũ-Nguyện, Thạch Nan-Biện thay thế. Ba anh
em Đào Nhất, Nhị, Tam không theo lão, lão cho Lê Tấn, Vũ Hào, Nguyễn Khánh thay
thế... Bốn cửa cùng phát pháo công thành. Quân phản loạn đông gấp bội, tưởng giữ
không nổi. Bất đắc dĩ sư thái Tịnh-Huyền phải xuất hiện giảng giải cho chư vương
nghe. Chư vương bị bọn trưởng lão Hồng-thiết giáo phao rằng: Khai-Thiên vương
làm phản, thí Hoàng-thượng. Vua Bà Bắc-biên theo Khai-Thiên vương phục binh ở
biên giới, vương gia từ Tống về đã bị loạn tên giết chết rồi. Vì vậy chư vương
ra điều kiện cho Khai-Thiên vương phải mở cổng thành đầu hàng. Để kéo dài thời
gian chờ vương gia về, sư thái Tịnh-Huyền truyền chư vương án binh bất động để
thuyết phục Khai-Thiên vương.
Dương Bình ngắt lời Tạ-Sơn:
_ Giữa lúc đó thần nhận được tin vương gia về tới Bắc-biên. Sư muội Thanh-Mai về
trấn Trường-yên. Hơn giờ sau quận chúa Bảo-Hoà, sư huynh Thông-Mai, cùng Văn đệ
nhập thành báo cho biết vương gia đang điều động quân tướng dẹp loạn.
Khai-Quốc vương hài lòng:
_ Khi nhận được tin sơ khởi Hồng-thiết giáo chuẩn bị làm loạn cùng xui dục chư
vương, thì cô gia đang ở hồ Động-đình. Cô gia cho vương phi, cùng nhị sư huynh
Bảo-Dân, sư tỷ Khấu Kim-An lấy thuyền ngày đêm về nắm Trường-yên. Sư huynh
Thông-Mai đem Bảo-Hòa, Lê Văn khẩn về nhập thành giúp cô mẫu Tịnh-Huyền giữ
thành Thăng-long. Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm trở về Bắc-biên mang bản bộ quân
mã tiếp cứu Thăng-long. Còn cô gia với Bình-Dương, Thiệu-Thái, Tôn Đản, Cẩm-Thi
về sau. Cô gia sai thần ưng, mang thư đến các vị quốc vương Đại-lý, Chiêm-thành,
Chân-lạp, Lão-qua, Xiêm-la để các nơi này đề phòng Hồng-thiết giáo ly khai
Lạc-long giáo làm loạn. Cô gia cũng thư cho Ngô-quốc quận vương nước Tống là
Trần Tự-Mai truy lùng diệt hết bọn Lạc-long giáo ly khai thành Hồng-thiết giáo
khắp vùng Quảng-Đông, Quảng-Tây, Đàm-châu, Quế-châu.
Các tướng nghe vương nói đều thở phào nhẹ nhõm. Vương tiếp:
_ Cô gia cũng viết thư cho các đại môn phái, nhờ các tôn sư lệnh cho chư đệ tử
tùy nghi sống ở địa phương nào thì giúp quan quân bắt bọn Lạc-long giáo ly khai.
Cô gia nhờ Đào Nhất-Bách đem đoàn đệ tử Tản-viên âm thầm về ngoài Thăng-long bảo
vệ gia quyến các quan, cùng kiềm chế gia quyến chư vương, chư tướng phản loạn.
Từ trước đến giờ người của Khu-mật viện nằm rải rác ở các đạo Lạc-long giáo cùng
Hồng-hương thiếu niên rất nhiều. Cô gia mật đem lệnh cho họ cứ giả theo phản
loạn, đợi khi đối trận với ta, thình lình họ trở giáo đánh phe phản loạn.
Các tướng vỗ tay hoan hô vang dội. Vương tiếp:
_ Ở mặt trận phía Nam, giặc mạnh hơn ta nhiều. Quân phản loạn có ba thành
phần. Một là quân của Đại-Việt, hai là giáo chúng Hồng-thiết, ba là bọn
Hồng-hương thiếu niên. Tạ sư đệ hãy trình bầy quân số của phản loạn ở phương Nam cho bách
quan rõ.
_ Tất cả quân phản loạn ở Thăng-long là do Dực-Thánh vương trực tiếp chỉ huy;
Hoàng Văn, Đặng Trường, Phạm Trạch, Nguyên-Hạnh chỉ là quân sư. Còn mặt trận
phương Nam, đích thân Nhật-Hồ lão nhân với Vũ Nhất-Trụ chỉ huy. Quân số chính
của chúng là quân Đại-Việt. Đầu tiên Đàm Toái-Trạng cho người mang chiếu chỉ giả
truyền Vũ-Uy vương trao đạo quân Đằng-hải cho y, rồi vương phải lên đường về
Thăng-long khẩn cấp. Vương không nghi ngờ, tuân chỉ liền. Khi vương cùng đám tùy
tùng về gần tới Trường-yên thì bị bọn Hồng-thiết giáo phục kích bắt hết. Quân
trực thuộc của Thanh-hóa có đạo Cửu-chân, gồm hai sư bộ, một sư kị, tổng số ba
vạn người. Y vét quân của các quận huyện được một vạn nữa, thành bốn vạn. Đúng
ra còn một hạm đội thủy quân, nhưng hạm đội này Dực-Thánh vương điều về
Thăng-long rối.
Tạ Sơn ngừng lại uống một hớp nước lấy hơi rồi tiếp:
_ Quân của Hồng-thiết giáo gồm năm đội Thiết-kị, mười đội bộ chiến, tổng cộng
mười lăm đội, một vạn rưỡi người. Y gửi về Thăng-long mất hai đội kị, ba đội bộ.
Quân của Nguyên-Hạnh gồm mười đội Hồng-hương thiếu niên, tổng số một vạn người.
Chúng kéo về Thăng-long mất ba đội. Còn lại bẩy đội.
Bảo-Hòa hỏi:
_ Đám quân của Nhật-Hồ tiến đánh những nơi nào trước?
_ Vũ Nhất-Trụ là Đàm Can, y từng giữ chức Đô-nguyên soái, cho nên y điều quân
rất giỏi. Đầu tiên, y tiến quân về đánh chiếm Vạn-hoa sơn trang. Cho đến nay
Khu-mật viện vẫn chưa được tin Trung-nghĩa hầu cùng công chúa An-Quốc ra sao.
Tiếp theo y đánh Vạn-thảo sơn trang. Trước kia Vạn-thảo sơn trang có rất nhiều
đệ tử, tới năm nghìn người. Từ khi Hồng-Sơn đại phu hợp tác với triều đình,
người tung ra bốn nghìn rưởi người đi khắp nơi lập y viện cứu dân. Tại sơn trang
chỉ còn hơn năm trăm y sư. Cho nên Vũ Nhất-Trụ chiếm dễ dàng. Y đem quân về đánh
Trường-yên, thì Trường-yên đã phòng vệ cẩn mật. Y chia quân làm hai. Hai đạo
Đằng-hải, Cửu-chân vây Trường-yên. Còn đám Hồng-thiết giáo, Hồng-hương về đánh
Thiên-trường. Trận chiến cho đến nay chưa có tin tức gì.
Lý Huyền-Sư đề nghị:
_ Thần nghe: Binh quý hồ tốc. Sau khi dẹp được đạo quân vây cửa Quảng-phúc, sao
vương gia không ra binh uy dẹp các cửa kia cho mau, để an thiên hạ?
Khai-Quốc vương nói:
_ Tả-kiêu vệ đại tướng quân biết một mà không biết hai. Phàm ra quân phải có
chính nghĩa. Từ Nhật-Hồ cho tới chư vương phản loạn đều là những người cầm quân
giỏi. Nhưng họ chỉ biết xung phong hãm trận, mà họ quên mất một đều căn bản
trong binh pháp: Binh quý thần tốc. Thời Lĩnh-Nam, ta thắng Hán hai trận đều nhờ
yếu tố này. Trận đầu tiên tại hồ Động-đình, công chúa Phật-Nguyệt điều quân từ
Linh-lăng, Trường-sa về hồ trong vòng có một đêm, trong khi Mã Viện cho rằng
phải mười ngày, thành ra y thua. Lần thứ nhì, khi Lưu Long, Đoàn Chí đánh xuống
Nam-hải. Chúng nghĩ rằng ở Nam-hải chỉ có đạo Nam-hải của công chúa Lê Chân với
công chúa Đàm Ngọc-Nga chưa quá năm vạn người. Trong khi y có tới ba mươi lăm
vạn, y nuốt dễ dàng. Y tưởng rằng lúc khởi chiến, Bắc-bình vương Đào Kỳ cùng
công chúa Thánh-Thiên có điều được đạo Giao-chỉ, Nhật-Nam đến Thường-sơn tiếp
cứu, ít ra phải ba tháng. Trong khi đó trong một tháng y tới Thường-sơn.
Bắc-bình vương điều quân mau hơn, chỉ nửa tháng hai đạo Nhật-nam, Giao-chỉ cùng
đạo thủy quân của công chúa Trần Quốc đã tới nơi.
Vương mỉm cười gật đầu:
_ Nhật-Hồ với Đàm Can hành sự đặt trên căn bản dối bách quan, lừa chư quân cùng
đệ tử, đáng lẽ y phải hành động thực mau chóng. Khi y đã thành công, bấy giờ mưu
kế bị lộ ra thì sự đã rồi. Đây, lúc khởi đầu tin tức của y sai lạc. Y tin rằng
Hoàng-thượng băng hà thực, Khai-Thiên vương phản nghịch, nên y hành động ngược
lại. Tại Thanh-hóa, từ khi khởi sự đến lúc tiến quân ra Trường-yên chỉ cần ba
ngày, mà y dùng dằng mất ba mươi bẩy ngày. Tại Thăng-long, đáng lý y phải dùng
số đông tràn ngập thành ngay một giờ đầu, trong khi y kéo dài đến hơn tháng chưa
đi đến đâu. Trong thâm tâm y, y cho rằng y có chính nghĩa, Khai-Thiên vương
không chính nghĩa, thời gian càng dài y càng có lợi: Quân thủ thành mệt mỏi, y
chỉ việc hô một tiếng là phải đầu hàng.
Chư tướng nghe vương phân giải, đều vỗ tay hoan hô. Vương tiếp:
_ Khi cô gia ở hồ Động-đình, nhận được tin dữ; cô gia phải hành động thần tốc
như đã trình bầy. Nếu cô gia chậm chạp, thì Nhật-Hồ với Dực-Thánh vương sẽ có
chính nghĩa, mà Khai-Thiên vương trở thành phiến loạn, thì cuộc hành quân của
phe phản loạn tức nhiên thành công. Cho đến nay, cô gia xuất hiện thì tại mặt
trận Thăng-long ta trở thành có chính nghĩa, Dực-Thánh vương trở thành phản
loạn. Bây giờ ta cần nói cho chư tướng, chư quân cùng võ lâm hương đảng biết rõ
tội trạng của bọn phản loạn, thì khi ra quân, ta cứ dùng dằng, giặc tự tan.
Vương bảo Mỹ-Linh:
_ Công chúa Bình-Dương khẩn soạn cho cô gia một bài hịch thảo nghịch tặc, rồi
chép làm nhiều bản gửi đi khắp nơi.
Mỹ-Linh tuân lệnh, nàng cầm bút viết liền. Vốn văn hay, chữ tốt, vẫy bút thành
văn, nàng chỉ soạn trong hơn giờ là xong, đem trình cho vương. Vương cầm lên đọc
cho bách quan nghe:
Thừa thiên hưng vận, Thuận-Thiên hoàng đế ban chiếu đến bách quan, tướng, quân,
võ lâm, hương đảng.
Từ khi trẫm ứng ý trời thuận lòng người, tiếp ngôi chính thống. Trước tiên đặt
lại nền móng quốc hồn, quốc thể, quốc uy. Về quốc hồn, trẫm tuyên chỉ tôn phong
Quốc-tổ, Quốc-mẫu, chư vị tiên thánh cùng sắc phong cho anh hùng liệt nữ thuộc
Đại-Việt ta, lại ban ruộng đất, cùng miễn thuế lập đền thờ, quanh năm hương
khói. Về quốc thể, trẫm giữ nguyên quốc danh Đại-Việt. Về quốc uy, trẫm kết thân
với Tống trong thể huynh đệ bình đẳng. Chỉ mấy món quà, cùng lời phân giải của
sứ đoàn, Khai-Quốc vương đã khiến Đại-Tống bãi trọng binh ở Nam-thùy, tru diệt
bọn tham quan hiếu chiến, khiến cho Đại-Tống, Đại-Việt, Đại-Lý, Xiêm-la, Lão-Qua
bãi binh ở biên cảnh, trăm họ khắp năm nước sống trong tình yêu thương của con
cháu Phục-Hy, Thần-Nông.
Trẫm lại kết hợp được anh hùng võ lâm Đại-Việt, Đại-lý, Chiêm-thành, Chân-lạp,
Lão-qua, Xiêm-la, Lưỡng-Quảng trong tinh thần huynh đệ thời Lĩnh-Nam.
Về nội trị, sau mười tám năm cai trị, trong không có nội loạn, ngoài không binh
cách, trẫm mở mang học hành, ban chỉ nuôi già dạy trẻ, mùa màng trúng liên tiếp.
Trong mười tám năm cai trị, trẫm thu thuế có mười năm, tám năm tha tô miễn thuế.
Trên khắp giang sơn, nơi nào cũng giầu có, nhà nhà no đủ. Trẫm tưởng thời vua
Hùng, vua Trưng cũng không hơn.
Hay đâu thời Thập-nhị sứ quân giặc Nhật-Hồ đem một thứ tôn giáo từ Tây-vực vào
Đại-Việt. Hồng-thiết giáo tôn thờ hai tên điên khùng Mã-Mặc, Lệ-Anh làm thánh.
Chúng xui con giết cha giết mẹ; em giết anh giết chị; học trò giết thầy, phá bỏ
kỷ cương xã tắc từ mấy nghìn năm của vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng truyền
lại. Chúng giết người không gớm tay. Vì vậy nên các triều Đinh, Lê thẳng tay
tiêu diệt chúng.
Khi trẫm lên ngôi, lấy từ bi hỷ xả của đức Thế-tôn ân xá cho chúng, lại cho
chúng dự đại hội Lộc-hà, tế anh hùng thời Lĩnh-Nam. Nào ngờ trong đại hội, chúng
mưu cướp ngôi, bị anh hùng dẹp tan. Võ lâm một lần nữa thuận cho chúng cải tà
quy chính, đổi Hồng-thiết giáo thành Lạc-long giáo. Nào ngờ, khi trẫn khó ở,
Khai-Quốc vương đi sứ, tên Nhật-Hồ cùng đám tàn quân giáo chúng Hồng-thiết nổi
lên, dối chư vương, lừa chư quân làm loạn. Nay bệnh trẫm đã thuyên giảm,
Khai-Quốc vương đã trở về. Trẫm ban chỉ này tới chư vương, chư tướng, chư quân
cùng giáo chúng được rõ:
_ Chư quân tướng đâu phải về đó. Trẫm hoàn toàn ân xá cho bản thân, cho cha mẹ,
cho vợ con. Chức, tước, bổng lộc được giữ nguyên.
_ Các giáo chúng hãy bỏ vũ khí, tìm đến quan quân đầu thú, sẽ được ân xá cho về
quê sống với cha mẹ, vợ con.
Những kẻ nào còn cầm vũ khí chống lại quân tướng, không những thân bị giết, mà
quan quân còn truy lùng về hương đảng giết cả cha mẹ, anh em , vợ con, quyết
không ân xá.
Vậy chiếu chỉ này tới đâu, tướng truyền cho quân; quân truyền cho dân cùng đọc,
ai nấy cùng quy phục chính thống.
Khâm thử.
Khai-Quốc vương trao chiếu chỉ cho Bảo-Hòa:
_ Cháu được phụ hoàng ta sủng ái nhất, vậy cháu đệ lên để ngài kiềm thự, đóng
ấn, rồi trao cho Hàn-lâm đại học sĩ, truyền sao khẩn cấp cho ta mấy nghìn tờ.
Bảo-Hòa lĩnh mệnh đi liền.
Khai-Quốc vương cùng chư tướng tiếp tục nghị sự. Cứ mỗi khi chim ưng đem thư từ
các trấn về, vương lại ban lệnh rồi gửi đi. Suốt ngày không lúc nào ngưng. Đến
đêm thì Bảo-Hòa đem chiếu chỉ đã sao thành hai nghìn bản đến. Vương sai Lê
Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm cho chim ưng mang đi khắp các môn phái, bang hội, chùa
đến, các trấn, các huyện cùng các đạo quân.
Vương gọi Thông-Mai, Lê Văn, Tôn Đản, Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, Dương Bình lại, ban
lệnh:
_ Trong chúng ta đây, sáu người có nội lực cao nhất. Vậy mỗi người tới một cửa
thành, phát ba tiếng pháo thực lớn đốt đuốc cho sáng, hầu chư quân tướng chú ý,
rồi vận nội lực đọc thực lớn cho chư quân tướng ngoài thành nghe.
Sáu người lĩnh mệnh đi liền.
Hơn giờ sau, sáu người trở về phục mệnh. Vương ban lệnh:
_ Từ giờ đến mai, chư tướng, quân theo phản loạn đều không ít thì nhiều bàn tán
với nhau rồi. Bây giờ chúng ta chuẩn bị dẹp giặc quanh Thăng-long trước.
Vương nói với Đoàn Thông:
_ Đoàn đô đốc đem hạm đội Động-đình tiếp tục giữ cửa Diệu-đức, cùng tiến chiếm
các vùng sông ngòi quanh Thăng-long, bắt hết tàn quân giặc trốn chạy bằng đường
thủy.
Đoàn Thông lĩnh mệnh đi liền. Vương gọi đô đốc Phạm Tuy:
_ Sư đệ đem hạm đội Bạch-đằng về Thanh-hóa ngay. Ta biết Đàm Toái-Trạng đem quân
đi hết, Thanh-hoá trống trơn, sư đệ nhân đó thình lình chiếm Thanh-hóa cắt đường
vận lương, kiềm chế gia đình bọn phản loạn, rồi đánh phía sau đạo quân Đàm
Toái-Trạng.
Vương đứng lên nhìn chư tướng:
_ Bây giờ tới mặt trận Thăng-long.
Vương suy nghĩ một lúc rồi nói với Nùng-Sơn tử:
_ Tổng chỉ huy cửa Quảng-phúc là Nùng đạo trưởng. Xin đạo trưởng cho Vũ-kị đại
tướng quân Quách Thịnh điều động đạo Bổng-nhật xuất thành đánh quặt sang phía
Đông, vây quân phản loạn đang công phá cửa Tường-phù, Phi-long. Tại cửa
Tường-phù, Dương sư huynh cho mở cửa để Thuận-Tông đem đạo binh Phong-châu cùng
Lý Nhân-Nghĩa dẫn đạo Cấm-quân đánh phía trước. Tôi đã ra lệnh cho đô đốc Vũ
Minh đem thủy quân đánh từ Bắc xuống. Khi thấy ba tiếng pháo lệnh thì đồng tấn
công. Ba mặt thọ địch, ắt Vũ-Đức vương với Nguyễn Khánh phải đầu hàng. Tổng chỉ
huy mặt trận cửa Phi-long, Tường-phù là đô đốc Vũ Minh.
Các tướng lĩnh mệnh rời điện Uy-viễn, vương vẫy quận chúa Kim-Thành theo sau,
tiễn đưa họ. Tới cửa cung, Thuận-Tông leo lên bành voi.
Vương bảo quận chúa Kim-Thành:
_ Cháu cần tập gánh vác việc nước như cô An-Quốc, như cô Lĩnh-Nam Bảo-Hòa, như
Bình-Dương. Ta đặt cháu thuộc quyền chỉ huy của châu trưởng Phong-châu Lê
Thuận-Tông.
Vương túm cổ áo cháu tung bổng lên cao, Kim-Thành lộn một vòng trên không rồi
rơi xuống bành voi ngay cạnh Lê Thuận-Tông nhẹ nhàng như đặt xuống vậy. Gì mà
Thuận-Tông không hiểu Khai-Quốc vương. Chàng cung tay vái ba vái, rồi ra lệnh
cho quản tượng thúc voi đi.
Vương trở vào điện Uy-viễn nới với Nùng đạo trưởng:
_ Tổng chỉ huy mặt trận cửa Đan-phượng là đô đốc Phạm Tuy. Xin đạo trưởng cho Tạ
sư đệ đem đạo Thượng-oai xuất ra cửa Nam, đánh vòng sang Tây, vây phía sau đạo
quân của Dực-Thánh vương. Trong khi đó Tả kiêu vệ đại tướng quân Lý Huyền-Sư mở
cửa Tây cho đạo Ngự-long xuất thành đánh trước mặt. Tôi đã cho lệnh đô đốc Phạm
Tuy chuẩn bị. Khi thấy ba tiếng pháo nổ trên không là lúc tất cả các đạo đồng
tấn công. Tuy cửa Quảng-phúc hiện không còn quân phản loạn, nhưng đạo trưởng vẫn
phải đề phòng bất ngờ.
Lúc từ Trung-nguyên về tới cửa Bắc, Khai-Quốc vương được sư phụ Huệ-Sinh cho
biết đệ tử Mê-linh tới hơn trăm người, hiện ẩn thân trong lớp áo cung nữ bảo vệ
hoàng tộc rất chu đáo. Từ hôm xẩy ra biến cố, vợ Tạ Sơn là em Ngô An-Ngữ tên Ngô
Thuần-Trúc đã đem con vào ở trong Khu-mật viện để cùng giúp chồng. Vương thấy
Ngô Thuần-Trúc, vợ của Tạ Sơn đeo kiếm cạnh chồng, phía sau là đứa con gái tên
Tạ Thuần-Khanh. Vương vẫy tay gọi nó. Thuần-Khanh tuy mới mười tuổi, nhưng lưng
đeo kiếm, trông đã chững chạc lắm. Vương nhớ tới Ngô Thường-Kiệt, giờ chắc cũng
đang cùng cha mẹ phòng vệ Trường-yên đây.
Thuần-Khanh cúi đầu hành lễ. Vương bảo nó:
_ Cháu theo sư bá đi đánh giặc.
Vương nói với Hà Thiện-Lãm:
_ Trong đạo binh Thượng-oai của em có bao nhiêu chim ưng đưa thư được?
_ Em có hơn trăm chim ưng, thì đến chín mươi con thuộc ưng chiến đấu, chỉ mười
hai con có thể đưa thư. Tất cả chim ưng đều do Vi Chấn chỉ huy.
_ Vậy em để Vi Chấn cùng đội ưng binh lại. Ta nhờ Vi Chấn chỉ huy đám chim ưng
Khu-mật viện thay Nguyễn Duệ đã tuẫn quốc.
Thiện-Lãm, Lưu Tường cùng các tướng lĩnh mệnh rời cung Uy-viễn. Vương vẫy quận
chúa Trường-Ninh, Hồng-Phúc theo tiễn các tướng ra cửa. Lãm, Tường lên bành voi.
Họ định thúc voi lên đường thì Khai-Quốc vương vẫy tay ra lệnh khoan khởi hành.
Vương quay lại nói với Trường-Ninh, Hồng-Phúc:
_ Ta đặt hai cháu dưới quyền Thiện-Lãm với Lưu-Tường. Các cháu phải xứng đáng là
con cháu vua Trưng.
Vương đưa mắt cho Bảo-Hoà. Nàng vung roi ngựa quấn lấy Hồng-Phúc, rồi rung tay
một cái, Hồng-Phúc rơi ngay cạnh Lưu Tường. Nàng lại vung roi lần nữa,
Trường-Ninh rơi cạnh bành voi Hà Thiện-Lãm. Hà, Lưu cùng vái vương rồi thúc voi
ra đi.
Vương hướng chư tướng hỏi:
_ Có ai thắc mắc gì không?
Tạ Sơn đề nghị:
_ Trình vương gia, các đạo phiến loạn đều có cao thủ Hồng-thiết giáo theo trợ
giúp. Xin vương gia viện cho mỗi đạo mấy cao thủ, bằng không e nguy lắm.
_ Được, vậy Thông-Mai theo giúp Thuận-Tông. Tôn Đản, Cẩm-Thi theo giúp Quách
tướng quân. Còn cánh của hạm đội Âu-Cơ thì không cần. Vì võ công đô đốc Vũ Minh,
dễ gì có người đương nổi.
Vương chỉ Bảo-Hòa:
_ Cháu theo giúp Thiện-lãm. Còn Lê Văn theo giúp Lý Huyền-Sư tướng quân. Đạo
quân hạm đội Bạch-đằng đã có các cao thủ phái Đông-a giúp đô đốc Phạm Tuy rồi.
Vương ghé tai Lê Văn dặn nhỏ mấy câu. Chàng gật đầu:
_ Đại ca yên tâm. Gì chứ việc đó dễ mà.
Các tướng lục tục trở lại với quân. Khai-Quốc vương cùng Thiệu-Thái, Vi Chấn với
đội ưng binh lên mặt thành, quan sát trận thế. Vương đến cửa Tường-phù, đội quân
của Lý Nhân-Nghĩa dàn ra uy nghiêm trên mặt thành. Họ thấy vương đến thì đốt lên
tiếng pháo lệnh, rồi hoan hô, thúc trống vang dội.
Vương đưa mắt nhìn xuống: Vũ-Đức vương ngồi trên mình ngựa đứng giữa. Bên phải
là Nguyên-Hạnh, dưới cây cờ có chữ Thông-huyền bồ tát Nguyên-Hạnh. Bên trái là
Nguyễn Khánh đứng dưới cây cờ có chữ Thái-tử thiếu bảo, Tả kiêu vệ đại tướng
quân, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, Khu mật viện sứ, Nhật-Nam hầu
Nguyễn. Phía sau, hai đạo binh Quảng-vũ ở giữa, bên phải là đạo Hồng-hương thiếu
niên, bên trái là đội binh Hồng-thiết giáo. Tất cả đang chuẩn bị công thành.
Lý Nhân-Nghĩa tường trình:
_ Khải vương gia, Dực-Thánh vương ỷ vào chiếu chỉ được trao trọng quyền, vương
thăng Nguyễn Khánh từ Đô-thống lên tới Tả kiêu vệ đại tướng quân tức là nhảy vọt
27 bậc. Hơn nữa y cũng được phong chức văn tới Đồng-trung-thư môn hạ Bình-chương
sự tức Tể-tướng.
Ông chỉ vào quân phản loạn:
_ Từ ba hôm nay, họ chia ra ba đội. Mỗi đội công thành một ngày, mục đích làm
cho quân thủ thành mệt. Từ sáng đến giờ, họ ngừng chiến, dường như họ định tập
trung lực lượng quyết chiếm thành tối nay.
Khai-Quốc vương vận nội lực gọi lớn:
_ Ta muốn nói chuyện với Vũ-Đức vương.
Vũ-Đức vương cùng Nguyên-Hạnh, Nguyễn Khánh đồng gò ngựa ngay dưới chân thành.
Họ hướng mắt nhìn lên. Thấy Khai-Quốc vương, Vũ-Đức vương hơi luống cuống:
_ Nhị huynh đấy ư? Người ta nói Phật-Mã làm phản, đem quân chiếm cung điện mưu
thí phụ hoàng. Lĩnh-Nam Bảo-Hòa phụ theo Phật-Mã, cho phục binh ở Bắc-biên. Khi
nhị ca về, bị trúng tên qua đời rồi. Vì vậy đệ phải đem quân hỏi tội Phật-Mã.
Thấy Vũ-Đức vương gọi mình là nhị ca, Khai-Quốc vương biết có thể thuyết phục
ông em này. Vương nói:
_ Chú tư. Chú có thể cho anh biết ai đã phao tin đó?
Vũ-Đức vương đưa mắt nhìn Nguyên-Hạnh, rồi nói:
_ Chính đại sư Nguyên-Hạnh cho biết như vậy.
Khai-Quốc vương hỏi Nguyên-Hạnh:
_ Hồ quân hầu. Quân hầu là người của Yên-vương gửi sang Đại-Việt ta. Khi mưu cơ
bại lộ, phụ hoàng ta ban chỉ ân xá cho quân hầu. Nay Tống-Việt hoà hợp với nhau
trong tình huynh đệ. Yên-vương với cô gia kết thân. Lê tiểu thư, là ái nữ của
Hồng-Sơn đại phu, nay trở thành Yên-vương vương phi. Nghĩa đệ Tự-Mai trở thành
phò mã, tước phong vương. Tại sao quân hầu lại phao tin, gây chia rẽ tương tàn
tại Đại-Việt ta?
Mặt Nguyên-Hạnh xám ngắt lại, y chỉ vào Khai-Quốc vương:
_ Chư quân nghe đây. Khai-Quốc vương đã bị loạn tên sát hại. Gã kia là Khai-Quốc
vương giả. Chư quân hãy tiến lên công thành, giết Phật-Mã, tôn Vũ-Đức vương lên
làm vua.
Nguyễn Khánh cũng nói:
_ Chư quân mau tiến lên chiếm thành. |