Cổng ngoài đền thờ bà Triệu, nằm cạnh QL1, Thanh-hóa. ( H́nh chụp tháng 8-2001 )

 

HỒI THỨ TƯ

Thuận-thiên cửu hùng

 

Thanh-Mai gật đầu:
Đúng đó. Song tiếc rằng nay đă thất truyền. Thôi Tự-Mai thuật tiếp đi.
Tự-Mai tiếp:  
Triều đ́nh nhà Hán thấy vậy, mới phong cho Sĩ Nhiếp làm thứ sử Giao-chỉ, v́ Sĩ Nhiếp biết nói tiếng Việt. Sĩ Nhiếp thấy nhà Hán đă suy đồi lắm rồi. Y có ư chiếm cứ đất Lĩnh-nam cũ, thành lập một giang sơn riêng như Triệu Đà xưa. Khi sang đến nơi, y không truy tầm đến thủ phạm đă giết cha. Y nghĩ rằng muốn giảm làn sóng chống Hán, cần tiêu diệt học thuật Lĩnh-nam. Muốn tiêu diệt học thuật Lĩnh-nam không ǵ bằng khuyến khích truyền bá Nho-học. Nhờ vậy làn sóng phản Hán phục Việt gỉam đi nhiều. Y xin đổi Giao-chỉ làm Giao-châu. Y phúc tŕnh rằng các vùng Nhật-nam, Cửu-chân, Giao-chỉ, Quế-lâm, Tượng-quận, Nam-hải, Thương-Ngô vốn là đất Lĩnh-nam cũ, dân chúng quật cường, muốn khôi phục cố thổ. Y đề nghị cho anh em ḿnh trấn nhậm, để giữ vững biên cương. Triều Hán chấp thuận.
Thanh niên công tử ngửa mặt nh́n những sợi tơ trời bay, nói bâng quơ:
Tự-Mai được giáo huấn rất chính xác về lịch sử Việt. Nguyên v́ những thư tịch cổ của ḿnh bị mất, rồi người Tầu họ muốn chép láo chép lếu thế nào, đâu ai biết mà chỉnh đốn. Trong bộ Hậu-Hán thư của Phạm Việp, y chép rằng dân Việt vốn không biết lễ nghĩa. Chính Sĩ Nhiếp là người đầu tiên dậy dân học chữ Hán, dạy lễ nghĩa. Thế mà ngày nay, nhiều người Việt coi bộ sách này làm khuôn vàng, thước ngọc để tra cứu sử Việt.
Thiện-Lăm chửi thề:
Tiên sư cha thằng Sĩ Nhiếp giả nhân giả nghĩa. Nó khôn thực. Thế là anh em nó chiếm cứ gần hết lănh thổ đất Lĩnh-nam. Chắc triều Hán phải phong chức lớn cho Nhiếp. Thế th́ trên thực tế nó đă làm vua Lĩnh-nam rồi c̣n ǵ nữa?
 Tự Mai gật đầu:
Đúng thế. Triều Hán phong cho y chức Tuy-nam trung lang tướng thống lĩnh bẩy quận. Niên hiệu Kiến-an thứ mười đời Hán Hiến-đế (207 sau tây lịch). Giữa lúc Tào Tháo đem quân đánh Nam-b́, đại chiến với Viên Đàm. Sĩ Nhiếp cùng anh em y gửi thư về bày tỏ ḷng trung thành với Tào Tháo. Y cho thủy thủ tải về 300 thuyền đầy gạo, cá khô cùng ba ngàn con ngựa chiến. Tào Tháo ép Hiến-đế, phong cho Sĩ Nhiếp chức An-viễn tứơng quân, tước Long-đệ đ́nh hầu.
Thanh-niên béo mập xen vào:
Kể ra Sĩ Nhiếp cũng đáng gọi là trung quân. Y trung thành với triều Hán, dù biết vua Hán chỉ là mộc vị của Tào Tháo.
Vị hoà thượng lắc đầu:
Không phải như vậy đâu. Đó chẳng qua y muốn yên thân. V́ thế lực của Đông-Ngô bấy giờ chưa có ǵ đáng kể. Con nên nhớ rằng phàm con người có hiếu, mới có trung. Y tham danh đến độ quên thù cha, th́ c̣n hy vọng ǵ tử tế với ai nữa?
Thanh niên béo mập chắp tay:
Đa tạ sư phụ chỉ dạy.
Tôn Đản hỏi:
Như vậy coi như hồi ấy Đại-Việt ḿnh thuộc Hán.
Tự-Mai lắc đầu:
Không hoàn toàn. Niên hiệu Kiến-an thứ mười ba (208 sau Tây- lịch) Tôn Quyền đại phá Tào Tháo ở Xích-bích. Sĩ Nhiếp hoảng sợ, sai con là Sĩ Huy vào Ngô làm con tin, xin qui phục Ngô. Chúa Ngô là Tôn Quyền vẫn để cho Sĩ Nhiếp thống lĩnh bẩy quận. Song sai Bộ Chất làm thứ sử Giao-Châu. Quyền phong Nhiếp tước Long-biên hầu. Tuy bề ngoài th́ vậy, chứ thực sự Sĩ Nhiếp tự xưng là Sĩ-vương. Niên hiệu Hoàng-vũ thứ năm của Tôn Quyền (226 sau Tây lịch) Sĩ Nhiếp chết. Con là Sĩ Huy lên thay. Nhà Ngô sai bọn Lữ Đại, Đái Lương, Trần Th́ sang chia nhau trấn nhậm. Sĩ Huy mang quân ra chống lại. Sau khi đại chiến một trận, Lữ Đại bị bại. Y dụ Sĩ Huy về hàng Ngô, sẽ đựơc gĩư chức tước cũ của cha. Sĩ Huy đem năm anh em ra hàng. Lữ Đại giết hết.
Tự-Mai thở dài:
Măi đến niên hiệu Xích-ô thứ 11 của nhà Ngô ( 248 sau Tây- lịch). Bấy ǵơ ngừơi Việt mới ngóc đầu dậy được. Các vơ phái lại xuất hiện. Đại hội vơ lâm ở núi Tản-Viên bàn truyện phục quốc. Song các đại tôn sư không đồng ư với nhau. Cuối cùng Triệu Quốc-Đạt thuộc phái Long-biên được bầu làm thủ lĩnh, liên lạc với quần hùng, chuẩn bị khởi nghiă.
Tôn Đản lắc đầu:
Hỏng rồi! Mưu khởi nghĩa mà đại hội đă là điều không ổn. Lại c̣n bầu một người liên lạc với quần hùng. Việc ồn ào như thế tránh sao khỏi tai mắt của giặc. Giặc Hán thời Lĩnh-nam là thứ giặc lâu năm không đánh nhau. Bộ máy chiến tranh kém cỏi. C̣n giặc Hán thời Tam-Quốc là thứ giặc bao năm chiến tranh. Quan lại được cử từ Trung-quốc qua. Đám quan lại quen với đàn áp... Nó biết, nó chặt đầu ngay từ khi chưa khởi sự.
Tự-Mai gật đầu:
Đúng thế. Đă vậy c̣n bị nội thù nữa chứ.
Thiện-Lăm hỏi:
Lại cái nạn như Lê Đạo-Sinh thời vua Bà?
Không! Kẻ thù trong nhà mới đau chứ? Thuận-Tông ngơ ngác:
Sư huynh, sư đệ của Triệu Quốc-Đạt chăng?
Tự-Mai thở phào ra một tiếng:
Vợ của Triệu Quốc-Đạt!
Mọi người đều kêu lên tiếng kinh ngạc. Tự-Mai thản nhiên:
Sự thực như thế đó.
Thanh niên công tử kinh ngạc:
Em ơi! Không nên bịa đặt ra truyện kỳ quái qúa đáng. Vợ của Quốc-Đạt có thể ngọai t́nh, giết chồng. Chứ không thể phản chồng trong việc phục quốc. Bởi Quốc-Đạt mưu truyện vá trời. Nếu thất bại, sẽ đưa đến cả nhà bị giết. Vợ Quốc-Đạt phản chồng, th́ bà phải biết rằng ḿnh cũng chết. Thà để chồng mưu phục quốc, may mắn thành đại nghiệp th́ danh thơm muôn thủa. Chứ có đâu theo giặc? Không lẽ bà tự tử.
Tự-Mai thản nhiên:
Khổng-tử nói rằng: Con giết cha không phải một lúc mà đến. Vợ phản chồng không phải một ngày mà xẩy ra. Vụ này có uyên nguyên rất sâu xa. Nguyên Triệu Quốc-Đạt cùng em gái là Triệu Quốc-Trinh xuất thân phái Long-biên. Bản lănh cả hai đều luyện đến chỗ cao thâm vào bậc nhất thời bấy ǵơ. Tiếng tăm vang dội truyền đến tai Đinh Trọng-An, một trong Tản-viên tam kiệt. Ông có ba con. Hai gái lớn sinh đôi. Một trai út. Gái lớn tên Đinh Nữ-Ḥan, nhỏ tên Đinh Nữ-Vĩ. Con trai út tên Đinh Tú-Mi. Cả ba con đều được ông dạy cho bản lĩnh thượng thừa. Nữ-Ḥan, Nữ-Vĩ có nhan sắc nghiêng thành đổ núi. Ông thừơng tự hào rằng con ông là loài rồng loài phượng trên thế gian. Nghe tiếng Triệu Quốc-Đạt vơ công tuyệt luân, lại có khí hùng, trí dũng. Ông đánh tiếng gả con gái cho. Gia đ́nh Quốc-Đạt đem lễ vật đến hỏi.
Thanh niên công tử ngạc nhiên:
Ta nghe phái Long-biên vốn chịu ảnh hưởng nặng của Lĩnh-nam thánh tổ kiếm pháp Nguyễn Phương-Dung, trứơc đây giữ chức tể tướng thời vua Bà. Triệu Quốc-Đạt là cao thủ phái Long-biên ắt phải giữ môn qui. Tuân theo luật một vợ, một chồng. Có đâu cưới hai cô một lúc.
Tự-Mai cười:
Công tử nóng nảy qúa. Quốc-Đạt chỉ cưới có một người thôi. Khi cha mẹ Quốc-Đạt tới hỏi con gái Đinh Trọng-An. Ông cho hai con gái cùng ra chào khách. Ư muốn để cha mẹ Quốc-Đạt chọn một trong hai cô. Không ngờ hai cô giống nhau qúa. Ông bà không biết ai mà lựa. Cuối cùng ông sai lấy của mỗi cô một cái khăn cḥang cổ, đưa cho Quốc-Đạt lựa. Hễ Quốc-Đạt chọn cái của cô nào, th́ gả cô đó. Quốc-Đạt chọn đúng cái của Nữ-Vĩ. Thế là Nữ-Vĩ thành vợ Quốc-Đạt.
Đạo sĩ đi với công tử thở dài:
Lấy khăn mà chọn người là điều tối kị trong hôn nhân. Cuộc hôn nhân này sau ắt đầy nước mắt.
Tự Mai gật đầu:
Đúng thế. Sau đám cưới của Quốc-Đạt, th́ người vợ Hán của thái thú Cửu-chân là Tiết Kính-Hàn chết. Kính-Hàn muốn học gương của Lĩnh-nam vương Trần Tự-Sơn thời trước, cưới vợ Việt trong giới vơ lâm để dễ cai trị. Y đem lễ vật tới hỏi Đinh Nữ-Ḥan làm kế thất. Đinh Trọng-An không muốn con gái làm một thứ Mị-Châu, một lọai vợ thằng Ngô. Ông định từ chối. Song chính Triệu Quốc-Đạt khuyên ông nên gả. V́ với tư cách phu nhân của thái thú. Đinh Nữ-Hoàn có nhiều tin tức, thế lực che chở cho vơ lâm phục quốc. V́ vậy Đinh Trọng-An quyết định cho Nữ-Ḥan làm vợ Tiết Kính-Hàn.
Thanh niên béo mập đi theo công tử hỏi:
Thế Kính-Hàn có mắc mưu không?
Có. Khi mới cưới Nữ-Hoàn, y nghĩ t́nh anh
em rể, cử Quốc-Đạt làm huyện lệnh huyện Vô-biên. Cử em trai vợ là Đinh Tú-Mi làm chức phó đô sát. Bấy giờ Triệu Quốc-Đạt gần như công khai họat động. Ông sai Triệu Quốc-Trinh vào núi Chung-chinh lập doanh trại, kết nạp nam nữ thanh niên các nơi về luyện tập. Bọn quan lại người Hán có thắc mắc ǵ th́ ông trả lời rằng huấn luyện sĩ tốt gửi sang cho vua Ngô đánh Ngụy. Động Xuân-đài biến thành nơi luyện thép làm vũ khí.
Thiện-Lăm nghe đến đây th́ bật lên tiếng kêu lớn:
Núi Chung-chinh với động Xuân-đài à? Ḱa là núi Chung-chinh. Phía sau núi là sông Mă. Tôi đă đến đó chơi nhiều lần, thuộc làu địa thế. C̣n động Xuân-đài th́ không biết ở đâu. Suốt bao năm nay, cả vùng này muốn điên lên v́ cái động Xuân-đài.
Ḥa thượng đi theo công tử hỏi:
Tiểu thí chủ có biết động Xuân-đài ở đâu không?
Thiện-Lăm lắc đầu:
Bạch thầy, cả vùng này bọn chúng con nhẵn chân hết, mà chưa từng nghe, từng biết động Xuân-đài ở đâu. Dân quanh đây, khổ về cái động Xuân- đài, Đông-đài này quá lắm.
Thiếu niên đi theo công tử hỏi:
Em cho anh biết tại sao đi!
Tiếng nói của y trong, ngọt như cam thảo. Thiện-Lăm thấy vui vui. Nó đáp:
Không biết từ đời nào, truyền tụng rằng có động Xuân-đài, bà Triệu luyện quân. Sau bị Ngô truy tầm. Bà trốn trong đó. Hồi ấy quân Ngô có hàng vạn người lên núi Chung-chinh, vạch từng ngọn cỏ, bới từng cành cây. Mà t́m cũng không ra. Thế nhưng hàng năm, sắp đến ngày giỗ Bà-vương, th́ y như là có nhiều người đến đây t́m động Xuân-đài. Họ bỏ tiền ra mướn dân chúng dẫn đường. Bọn em được họ cho không biết bao nhiêu tiền, để đưa đường lên núi Chung-chinh. Hàng ngày chúng em leo núi, bắt chim, hái trái, riết rồi thuộc từng mỏm đá, từng gốc cây. Mà nào có thấy động Xuân-đài ở đâu?
Ḥa thượng có vẻ quan tâm tới việc này. Ông hỏi:
Tiểu thí chủ đă từng dẫn nhiều người lên núi t́m động. Vậy họ là những lọai người nào?
Thiện-Lăm tính đốt ngón tay:
Họ từ các nơi xa đến. Việt có, Chàm có, Hán có. Nam có, nữ có. Tăng có, tục có. Gần đây có đến bốn, năm toán người Hán đến. Họ cất lều ở trên núi hàng tháng. Rồi cũng thất vọng ra đi.
Nó nhăn mặt suy nghĩ, rồi tiếp:
Cách đây hơn tháng, Nguyên-Hạnh đại sư ở chùa Sơn-tĩnh phái ba trăm thiếu niên Hồng-hương lên núi ở luôn mười ngày liền. Họ vạch từng viên đá, từng gốc cây trước sau ba chục lần, cũng chẳng t́m ra tông tích ǵ. Từ đấy người treo tấm bảng cấm không cho bất cứ ai lên núi. Bằng trái lệnh th́ thiếu niên Hồng-hương bắt giải quan. Sau đó mới bớt cái nạn đi t́m động Xuân-đài. Ai cũng tưởng Nguyên-Hạnh đại sư muốn cho dân chúng yên tĩnh, ngăn cản người lạ đến làm rối loan di tích lịch sử. Nhưng theo cháu...
Thiếu niên công tử hỏi:
Em cho rằng Nguyên-Hạnh ngăn cấm người ta với mục xích khác chăng?
Không phải như vậy. Theo em nghĩ đại sư Nguyên-Hạnh cấm người ta lên núi ắt có chủ kiến riêng. Tuần trăng trước chúng em lên núi chơi, th́ thấy đại sư cùng với một số người bịt mặt lên t́m kiếm khắp các hang hốc. Rút cuộc cũng chẳng thấy động Xuân-đài. Cho nên núi Chung-chinh chỉ có thiếu niên Hồng-hương là được tự do lên mà thôi. Tuy vậy bọn em có nhiều ngách khác lên núi, mà bọn họ không biết.
Tôn Đản nghe Hà Thiện-Lăm tường thuật, khuôn mặt nó thay đổi luôn như suy nghĩ một điều ǵ, nó định nói vài câu, rồi lại thôi.
Thanh niên béo mập nghe nói đến Hồng-hương thiếu niên, chàng hỏi:
Hồng-hương thiếu niên là những người tốt hay xấu?
Lê Thuận-Tông đáp không suy nghĩ:
Họ là những người rất tốt. Ban ngày họ làm việc, tối về canh pḥng trộm cắp. Ai có việc khó khăn, họ giúp đỡ tận t́nh. Họ không sợ bất cứ thế lực nào, ngoài trừ đệ tử Hồng-thiết giáo và đệ tử phái Đông-a.
Nói rồi nó đưa mắt nh́n chị em Thanh-Mai.
Lư Long mỉm cười:
Đệ tử phái Đông-a đă đụng chạm với thiếu niên Hồng-hương từ bao giờ?
Em không rơ sự thực ra sao. Có một anh Hồng-hương nói nhỏ với bọn em rằng đại hiệp Trần Tự-An gọi đại sư Nguyên-Hạnh là lăo thầy chùa ăn thịt chó. Thế mà đại sư cũng phải nín.
Thanh-Mai hỏi hoà thượng:
Bạch đại sư! Đệ tử thấy dáng di của đại sư th́ đoán chắc đại sư là cao tăng phái Tiêu-sơn. Xin đại sư cho đệ tử biết đại sư Nguyên-Hạnh là người tốt hay xấu?
Hoà thượng mỉm cười:
Cô nương thực tinh mắt, thực không hổ là đệ tử danh gia. Bần tăng quả thuộc phái Tiêu-sơn. C̣n truyện sư thúc Nguyên-Hạnh th́ bần tăng không rơ, v́ bần tăng với sư thúc xa nhau lâu quá rồi. Có lẽ sư thúc bần tăng vô phép với đại hiệp Tự-An, nên người mới mắng mỏ, cô nương chẳng nên lưu tâm làm ǵ.
Lư Mỹ-Linh hỏi:
Hồng-thiết giáo ở vùng này mạnh lắm sao?
Trước kia họ ẩn hiện không chừng. Từ khi có chiếu chỉ ân xá. Họ hoạt động công khai. Ít ai dám động đến họ. Động đến họ, th́ mất mạng như chơi.
Nghe đến Hồng-thiết giáo, chị em Thanh-Mai đều tỏ ư quan tâm. Trong nhà nàng đă xẩy ra một thảm cảnh mà chị em nàng tin rằng do Hồng-thiết giáo gây ra.
Nguyên vùng Thiên-trường, ảnh hưởng của phái Đông-a rất mạnh. Khắp vùng không có người của môn phái khác. Phải vượt qua trăm dặm tới cố đô Trường-yên, mới có đệ tử của phái Hoa-lư cũ, nay nhập lại thành đệ tử phái Mê-linh.
Từ khi Thuận-thiên hoàng đế lên ngôi vua, ban chiếu đại xá thiên hạ. Hồng-thiết giáo do đó được hoạt động khắp nơi. Một phụ nữ tên Đặng-thị Anh, gốc người Thiên-trường. Hồi dậy th́, mụ cũng có nhan sắc. Sau gả về làm vợ một lương y tên Trần Tấn-Khang. V́ vậy người ta gọi mụ bằng danh tự Trần phu nhân. Hay Anh-Trần. Mụ bí mật nhập Hồng-thiết giáo, do trưởng lăo Đặng Trường, kết nạp. Sự thực hai bên họ Đặng, nhưng giữa Đặng Trường với mụ không có chút máu mủ nào. Để che mắt chồng cùng chúng nhân, mụ gọi Đặng Trường bằng chú. Mụ lấy giáo danh là Vũ Lâm.
Hồng-thiết giáo chủ trương phá bỏ mọi kỷ cương luân lư Đại-Việt, tạo một lớp người mới, chỉ biết giáo chủ, giáo qui, cùng nguyên tắc Hồng-thiết kinh đưa ra.
V́ vậy ngay khi nhập giáo, Anh-Trần được Đặng Trường thuyết phục t́nh nguyện làm cây thuốc cho y luyện công. Nàng không hiểu danh tự cây thuốc có ư nghĩa ǵ. Một lần ṭ ṃ hỏi sư thúc Vũ Anh, ông gạt đi: « Cháu cứ tưởng tượng đây là những ǵ dơ bẩn nhất của con người ».
Mụ ta bị ma tính Hồng-thiết kinh làm u mê, công khai ăn nằm với đủ mọi loại người kể cả sư ông Thiện-Báu trong vùng. Lương y Trần Tấn-Khang khuyên bảo thế nào, mụ cũng không nghe. Không nghe th́ chớ, mụ ngồi lê đôi mách khắp nơi, bịa truyện bêu xấu chồng. Một lần mụ ăn nằm với thằng hủi mốc trong vùng, bị làng bắt được, đem ra chợ đánh ba mươi roi, cạo đầu sơn vôi.
Việc này xẩy ra, Đặng Trường không những không trách mắng, c̣n khen mụ, thăng mụ lên chức quản giáo huyện. Đặng khuyên mụ nên qui tụ giáo chúng lập ấp riêng để sống. Khắp vùng Thiên-trường, con em gia đ́nh tử tế đều theo học phái Đông-a. Muốn chiêu dụ người theo giáo, mụ cùng một số giáo chúng t́m khu đất hoang, lập trang mới. Trang này tên Yến-vĩ. V́ trang gần một đầm sen hoang vu, luôn có sương mù. V́ vậy trang này được gọi bằng mỹ tự  Yến-vĩ sương sen . Tất cả bọn du thủ du thực, đầu trộm đuôi cướp, bọn vong mạng, bọn trốn chúa lộn chồng, bọn đĩ bợm bị làng xua đuổi, đều đến trang xin nhập xă tịch.
Hồi trang mới thành lập, nhiều người đến xin phái Đông-a đứng ra chủ tŕ công đạo, đuổi bọn chúng đi. Mụ Anh-Trần rất khôn ngoan. Mụ đến xin yết kiến Trần Tự-An, khóc dập đầu xuống đất, xin hoàn lương. Năm đó mụ sáu mươi tuổi. Để chứng tỏ ḿnh đă cải tà qui chánh, mụ xin hầu hạ một đệ tử ngoại đồ phái Đông-a tên Thúy Thập Thiên. Nhờ Thập Thiên cầu xin, Trần Tự-An lờ đi cho trang Yến-vĩ sương-sen được tồn tại. Vả lại các quan chức trong vùng cũng xin Tự-An nhắm mắt để bọn trộm cướp, đĩ điếm có chỗ dung thân.
V́ vậy hầu hết người trong trang tuổi đều trên bốn mươi lăm. Không người đàn ông trong trang nào có vợ. Chẳng người đàn bà trong trang nào có chồng. Mụ Anh-Trần xây một căn nhà, chia làm ba gian. Mỗi gian ngăn cách nhau bằng một bức tường, có cửa thông với nhau. Hàng tháng mụ tổ chức hội Vu-sơn hai lần vào ngày rằm, mùng một.
Hội Vu-sơn là ǵ? Vu-sơn là lối hành lạc tập thể của Tây-dương giáo chủ Hồng-thiết giáo Xích Trà Luyện phát minh ra. Sau khi học tập nghiên cứu, mụ Anh-Trần thực hiện ở trang Yến-vĩ sương-sen. Mụ chọn ba mươi người đàn ông, cho vào gian bên Đông. Ba mươi người đàn bà cho vào gian bên Tây. Gian giữa đóng kín, không một tia sáng lọt vào. Sau ba tiếng trống, cửa mở. Đàn ông, đàn bà đều ùa vào gian giữa. Trong bóng tối, nam, nữ ôm lấy nhau, lọan xà ngầu khoảng nửa ngày. Cuối cùng, sau ba tiếng trống, nam sang gian Tây, nữ sang gian Đông. Ai đă làm với ai, nào có biết.
Sau khi mẫu thân Thanh-Mai qua đời v́ trúng Chu-sa độc chưởng. Người anh cả của Thanh-Mai tên Thông-Mai cho rằng bọn hại mẹ ḿnh ắt ẩn thân ở trang Yến-vĩ sương-sen. Chàng âm thầm dọ thám. Vụ này lộ ra, bà kế mẫu của nàng biết. Không hiểu sao, bà gây gổ với Thông-Mai liên miên. Thông-Mai phẫn chí, bỏ nhà đi tu, hẹn chỉ trở về trần khi t́m ra kẻ sát hại mẫu thân. Thông-Mai bỏ đi đă hơn hai năm không tin tức. Chị em Thanh-Mai lấy cớ theo sư phụ hành hương Lệ-Hải bà vương, nhưng thực ra để t́m tung tích anh cả. Cho nên mỗi khi nhắc đến Hồng-thiết giáo, Thanh-Mai lại cảm thấy đau xót trong ḷng.

 

Tiếp theo