_ Vãn bối không ham ngôi Vua. Làm Vua chỉ là bất đắc dĩ. Nếu như phụ-hoàng
không chấp thuận chí của tiểu bối, người có truyền ngôi, tiểu bối cũng khước từ.
Rồi người truyền ngôi cho ai cũng được. Còn chí của vãn bối ư? Vãn bối chỉ muốn
kết hợp võ lâm, danh sĩ lại, để đòi đất tổ, cùng thống nhất tộc Việt, thế thôi.
Lão Lê hỏi:
_ Vương vừa nói: Đòi đất tổ, thống nhất tộc Việt. Như vậy phải chăng Vương định
đòi đất trước, thống nhất sau?
_ Trong hoàn cảnh khó khăn này, dễ gì ai nể phục ai? Vì vậy trước hãy đốt lên
ngọn đuốc đòi đất tổ. Có như vậy mởi làm nổi bật chủ đạo tộc Việt, nhân tâm qui
phục. Khi nhân tâm qui phục, sự thống nhất tộc Việt không khó. Tộc Việt thống nhất
rồi, mới thực sự đòi đất tổ.
Lão họ Tôn thở dài:
_ Nhưng đất tổ hiện dân chúng thành Hán hết rồi. Triệu người như một, họ vẫn tự
coi mình con cháu vua Hoàng-Đế, hậu huệ Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, coi người Việt
là thứ Nam-man. Liệu khi ta chiếm được cố thổ rồi họ có chịu tuân phục không?
Mỹ-Linh xen vào:
_ Thưa tiên sinh, người Hán trên vùng cố thổ Lĩnh-Nam tuy nói tiếng Hán, nhưng
thực ra họ là người Hán gốc Việt. Khi đòi được đất, ta vẫn để họ nói, học chữ
Hán, nhưng cho họ sống trong tinh thần Nho. Tiểu nữ muốn nói thứ Nho từ thời
Phục-Hy, Thần-Nông, chứ không phải thứ Tống-Nho như hiện nay.
Lão họ Tôn than:
_ Khó thực! Lão-qua, Xiêm-la, Chân-lạp, Đại-Việt thì dễ rồi. Nhưng Đại-lý nước
giầu dân mạnh, triều Đoàn lập lên đã mấy trăm năm, cơ sở vững chắc. Trong khi
triều Lý mới lập chưa đầy hai mươi năm. Khi thống nhất, họ Đoàn sẽ đòi ngồi trên
ngôi vua. Dù Vương-gia có chịu khuất phục, nhưng võ lâm lại chống. Còn
Chiêm-thành, trong quá khứ, Đại-Việt đem quân tàn phá nước họ nhiều lần, nay
thành kẻ thù mất rồi. Vương-gia phải vượt ra được hai mấu chốt đó, mới thành
công. Nhược bằng không thống nhất tộc Việt, sao đòi được đất cũ nay thuộc Tống?
Lão họ Lê tiếp:
_ Trong triều, khó mà các quan văn võ muốn chiến tranh. Nhất là Quốc-sư
Minh-Không, với tim Bồ-tát, không bao giờ người chấp nhận khởi binh đòi cố thổ.
Vì vậy, các vị Vương mới ngấp nghé ngôi vua. Tại triều, Dực-Thánh vương đang
luồn lọt Lưu-hậu, mong khi Hoàng-đế băng hà, Lưu-hậu ban chỉ phong cho làm vua.
Khai-Thiên vương lại là đệ tử Quốc-sư Minh-Không. Quốc-sư nói một tiếng, võ lâm
ắt thuận theo ý người, mà để Thiên-vương lên ngôi. Lại còn Đông-Chinh vương, Vũ-Đức
vương. Vị nào cũng có quân bản bộ hết.
Khai-Quốc vương biết đây là những dị nhân, ẩn sĩ, trông rộng, nhìn xa. Vương chắp
tay nói:
_ Tiểu vương khẩn khoản mời hai vị hãy rời bỏ sơn động, ra giúp nước. Với tài
hai vị, có thể đưa dân Việt sống lại thời vua Hùng, vua Trưng. Hai vị nghĩ sao?
Lão Tôn lắc đầu:
_ Xin vương cho chúng tôi được tiêu dao tự tại. Chúng tôi hạc nội mây ngàn, tính
lười biếng thành tật mất rồi.
Thanh-Mai khẩn khoản mời hai lão uống rượu, ăn cơm trưa. Nhưng hai lão từ chối,
ra về. Khai-Quốc vương tiễn hai lão lên bờ:
_ Hai vị lưu lạc xa quê hương, mà lòng còn hướng về đất tổ, thực xứng đáng con
Rồng, cháu Tiên. Ước mong sẽ có dịp được nghe những lời dạy bảo của các vị.
Hai người chắp tay xá, phơi phới mà đi, không quay đầu lại.
Họ đi rồi, Khai-Quốc vương hỏi Vương-phi và hai cháu:
_ Họ là ai? Có biết võ công không?
Thanh-Mai vốn bác học, nàng nói ngay:
_ Lão Tôn dáng đi thẳng, hơi chúi về trước, có lẽ lão luyện võ công Cửu-chân.
Nhưng bàn tay ẩn hiện hơi đỏ, dường như lão luyện Hồng-thiết kinh. Còn lão Lê,
từ tướng đi, đến cử chỉ, rõ ra người luyện võ công Khúc-giang.
Chiều hôm ấy có chim ưng báo, thuyền chở kho tàng đã về tới Tiên-yên. Khai-Quốc
vương thở phào:
_ Như vậy là xong. Ngày mai ta tìm Nguyên-Nghiễm, rồi trẩy Biện-kinh.
Vương vừa đứt lời, có Vương-duy-Chính tới mời Khai-Quốc vương, Vương-phi,
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái vào dinh Tuyên-vũ sứ đàm đạo. Y mang theo đội thiết kỵ, cùng
bốn xe ngựa, yên cương mạ vàng sáng chói.
Vương biết đây là nghi lễ chính thức của Bình-Nam vương đối với Khai-Quốc
vương, sứ thần Đại-Việt. Vương mặc y phục Vương tước. Thanh-Mai mặc y phục
Vương-phi. Mỹ-Linh trong y phục công chúa. Thiệu-Thái y phục Thế-tử Bắc-biên.
Vương Duy-Chính cỡi ngựa đi song song song bên cạnh xe vương. Thiết kị đi trước
đánh trống dẹp đường, mang bản tĩnh túc, hồi tỵ. Dân chúng đứng nghẹt đường đón
Vương. Dân vùng Quảng-Đông tuy nói một thứ tiếng nửa giống Việt, nửa giống Hoa,
nhưng trong thâm tâm họ vẫn nhận họ là người Việt, vẫn tự hào con Rồng, cháu
Tiên. Mấy hôm rồi họ nghe Khai-Quốc vương cùng công chúa Bình-Dương đi sứ qua
đây, song không biết ở đâu, bây giờ họ đi xem cho biết mặt. Song khi thấy xe, họ
lại dán mắt vào Vương-phi, Công-chúa mà khen đẹp.
Thanh-Mai, Mỹ-Linh cũng biết thế. Hai người dơ tay vẫy dân chúng, miệng tươi
cười chào hỏi. Xe tới cửa dinh Tuyên-vũ sứ. Hai hàng giáp sĩ dàn ra đứng đón.
Bình-Nam vương bước xuống sân. Hai Vương hành lễ, rồi sóng vai vào đại sảnh
đường. Các quan văn võ Quảng-Đông lộ đều đầy đủ. Lễ nghi xong.
Bình-Nam vương nói lớn:
_ Cô gia xin giới thiệu với các quan biên trấn Nam-thùy. Vị này là Khai-Quốc
vương, trừ quân của Đại-Việt. Vương họ Lý, húy Long-Bồ. Vương cùng Vương-phi
đang trên đường đi sứ Đại-Tống của ta để kết hiếu. Khác với những sứ đoàn khác,
chỉ kết hiếu ở triều đình. Khai-Quốc vương kết hiếu giữa Tống-Việt bằng ba mặt
khác nhau: Triều đình, bách quan, nhân-sĩ võ lâm.
Các quan vỗ tay hoan hô. Bình-Nam vương tiếp:
_ Khai-Quốc vương với cô-gia đã kết huynh đệ. Vương-gia là nghiã đệ của cô gia.
Vừa chân ướt chân ráo tới biên thùy đã thu phục được bang Trường-giang và bang
Nhật-hồ.
Bang Trường-giang hoạt động ở Bắc Trường-sa, cách Khúc-giang hơn nghìn dặm. Các
quan chỉ nghe danh, mà chưa bị khốn khổ với chúng. Chứ bang Nhật-Hồ suốt bao năm
qua như bóng ma, ác qủy ám ảnh họ. Người nào cũng có thân nhân, bạn bè bị bang
Nhật-hồ làm cho điêu đứng. Nay nghe bang này đã quy phục triều đình, biến thành
bang Hoàng-Đế, chuyên về trị độc giúp dân. Họ mừng như trút được gánh nặng.
Bình-Nam vương từ từ thuật việc nghĩa đệ thu phục bang Trường-giang, Nhật-hồ như
thế nào một lượt. Cuối cùng vương kết luận:
_ Khai-Quốc vương với cô gia đã tạm ước với nhau. Hiện cần tấu trình hai vị
hoàng-đế Tống-Việt duyệt nữa, coi như thành luật. Tuy nhiên kể từ hôm nay...
Vương ngừng lại cho các quan theo kịp:
_ Thứ nhất, dân Tống thuộc tộc Hán. Dân Việt, dân Man, dân Thái, dân Tày, dân
Miêu đều thuộc tộc Việt. Tộc Hán, tộc Việt cùng gốc ở Phục-Hy, Thần-Nông, phải
lấy tình huyết tộc thương yêu nhau. Cấm tuyệt các quan biên trấn Việt-Tống, phân
biệt kỳ thị giống nòi. Thực vô lý khi dân tộc Hán, tộc Việt thương yêu nhau,
buôn bán, kết bạn, kết hôn với nhau. Mà quan biên trấn bắt phải thù ghét nhau!
Ai vi phạm sẽ bị phạt nặng.
Các quan biên trấn Nam-thùy Tống từ xưa đến giờ ở trạng thái già nắn, rắn buông.
Thường họ cho người chiêu dụ khê động, lấn đất, thu thuế. Gặp biên trấn Việt dễ
dãi cho qua. Họ càng lấn át. Gặp phải người cứng rắn, phản ứng. Họ kêu rêu rằng
Đại-Việt sang cướp phá. Bây giờ hai vị ngồi địa vị cao nhất về binh lực đích
thân điều động hòa khí. Họ hiểu rằng vấn đề Nam-thùy coi như yên, cứ ôm gối ngồi
cao thụ hưởng.
Bình-Nam vương tiếp:
_ Mở rộng các cửa biển Bắc lên tới Hổ-môn. Nam xuống tới Tiên-yên, cho thương
thuyền Tống-Việt buôn bán. Tại biên giới, Tống, Việt vào sâu năm mươi dặm, mở
thực nhiều bạc dịch trường cho dân buôn bán. Hàng hóa không giới hạn. Quan biên
trấn hai bên sẽ kiểm soát thước, cân để tránh gian lận. Thuế khóa, hai bên cử Ty
thương bạc ấn định rõ ràng. (5)
Chi chú
(5) Chu Khứ-Phi, Lĩnh ngoại đai đáp, Trung-hoa thư cục, Cộng-hòa nhân dân
Trung-quốc xuất bản 1972. Chu Khứ-Phi là người trực tiếp quan sát cuộc giao
thương thời Tống-Việt kể lại như sau:
_ Trước đó có các bạc dịch trường Vĩnh-bình, Cổ-vạn, Tô-mậu, Hoành-sơn. Các chợ
trên đây thuộc đường bộ. Thuộc đường thủy có Khâm-châu.
_ Chu viết sách trước cuộc thương thảo Khai-Quốc vương, Bình-Nam vương nên chỉ
thuật có thế. Từ khi có cuộc thương thảo có tới trên trăm bạc dịch trường.
Sau này, với chính sách Vương An-Thạch gây thù oán với Việt, các bạc dịch trường
đều đóng cửa.
Từ trước đến giờ, biên giới Tống, Việt chỉ có năm Bạc dịch trường, số hàng hoá
không giới hạn rõ rệt, thành ra bên này cho bán, bên kia cấm đoán. Dân không
biết đâu mà mò. Chính vì vậy mà hai bên thường xẩy ra xung đột.
Vương chờ cho cử tọa hết hoan hô, rồi tiếp:
_ Ba là, khi có người Tống trốn sang Việt. Người Việt trốn sang Tống. Các quan
biên trấn phải bắt giao trả cho nhau. Khi trộm cướp bên này, trốn sang bên kia.
Đều phải khẩn cấp truy lùng, rồi hai bên họp nhau xử tội chúng (6).
Ghi chú
(6) Đọc trong Tống-sử, Tục tư-trị thông giám trường biên, không thấy ghi những
cuộc hành binh hỗn hợp trừ đạo tặc, hoặc dẫn độ tội nhân thuộc loại trộm cướp,
vượt biên bất hợp pháp của Tống với Tây-hạ, Đại-lý, Liêu mà chỉ thấy ở Nam-thùy
với Đại-Việt. Nguyên do từ cuộc thương thảo này mà ra.
Trong suốt đời Lý, chúng tôi ghi được 564 cuộc dẫn độ như thế. Chia ra 323 do
Tống dẫn cho Việt, và 241 do Việt dẫn cho Tống.
Tuyên-vũ sứ mời hai Vương nhập tiệc. Mỹ-Linh, Thanh-Mai, Thiếu-Mai được phu nhân
của an-vũ sứ, chuyển vận sứ Quảng-Đông tiếp riêng. Hai phu nhân chỉ là những nữ
lưu nhu nhã trong phòng the, họ không biết gì về võ công văn học. Nghe
Thanh-Mai, Mỹ-Linh ứng đối như nước chảy, kiến thức cao xa, họ thực không bằng.
Họ cảm thấy tủi thân, khi phụ nữ Việt được chồng con, gia đình coi trọng. Trong
khi phụ nữ Tống bị coi như những tôi tớ trong nhà không hơn, không kém.
Truyện trò chán đi đến nói về bệnh hoạn. Các phu nhân người thì bị huyết trắng,
người thì bị đau bụng kinh, người thì bị kinh kỳ bất điệu, người thì bị rụng
tóc. Thiếu-Mai nhất nhất giảng thực kỹ nguyên do sinh bệnh. Nàng hứa sẽ trị cho
mọi người.
Tiệc được nửa chừng, chợt Mỹ-Linh lấy tay viết lên bàn trước mặt Thiếu-Mai mấy
chữ:
_ Có gian nhân trên nóc nhà. Sư tỷ nghĩ sao?
Thiếu-Mai viết:
_ Dùng Lăng-không truyền ngữ nói với chú hai không được, vì xa qúa.
Mỹ-Linh viết:
_ Sư tỷ ngồi gần Đông-Sơn lão nhân nhất. Sư tỷ báo cho lão biết. Lão báo cho
Bình-Nam vương.
Thiếu-Mai gật đầu. Nàng dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai Đông-Sơn lão
nhân:
_ Thiếu-Mai đây. Lão nhân nghe rõ không?
_ Rõ lắm. Tiểu thư cần dạy dỗ điều gì??
_ Trên nóc nhà có gian nhân nghe trộm, báo cho Vương-gia biết đi.
_ Bần đạo xin báo ngay.
Lão đứng lên bưng rượu đến trước hai Vương rót ra chung:
_ Bần đạo xin chúc mừng chúa công cùng Khai-Quốc vương thành công trong việc tạo
hạnh phúc cho dân Tống-Việt.
Hai Vương bưng rượu uống. Trong khi đó lão dùng Lăng-không truyền ngữ nói:
_ Lê tiểu thư khám phá ra trên nóc đện có gian nhân nghe trộm. Tiểu thư nhờ bần
đạo khải với hai Vương. Có nên lôi cổ nó xuống không?
Khai-Quốc vương đáp:
_ Không cần! Nội công một tên hoàn toàn chính phái. Một tên nửa chính, nửa tà.
Chờ xem chúng định làm gì, rồi ta hãy lôi cổ chúng xuống.
Bình-Nam vương trả lời:
_ Chúng nghe trộm là có gian ý. Chúng biết anh em mình có nhiều cao thủ, mà dám
nghe trộm, ắt thân thế chúng không nhỏ. Phải lôi cổ chúng xuống xem chúng là ai?
Chờ cho Đông-Sơn lão nhân về chỗ rồi, Bình-Nam vương lên tiếng:
_ Địch trạng nguyên.
Địch Thanh vội đứng bật dậy:
_ Thần xin đợi chỉ dụ Vương-gia!
_ Chúng ta uống rượu thế này, mà có hai quý khách không được mời, thực khiếm lễ
quá! Địch trạng nguyên lên nóc điện mời quý khách xuống cho ta.
Tiếng dạ kéo dài. Khi dứt, Địch Thanh đã ra khỏi điện, tung mình lên nóc nhà.
Bình, bình hai tiếng lớn vọng lại. Mọi người ra sân đứng xem. Địch Thanh đang
chiết chiêu với hai người.
Sau khi đối chưởng với hai lão, Địch Thanh bật lui liền hai bước, khí huyết chạy
nhộn nhạo trong người cực kỳ khó chịu.
Mọi người la hoảng, vì bản lĩnh Địch Thanh e rằng Đại-Tống không có quá mười, mà
dường như thua sút hai lão già.
Mỹ-Linh đưa mắt nhìn Khai-Quốc vương, Thanh-Mai, Thiệu-Thái. Cả bốn im lặng. Vì
hai người đó chính lão già họ Tôn, họ Lê mới đàm luận với vương dưới thuyền hồi
sáng.
Tích trù Động-đình uy trấn Hán,
Danh lưu thanh sử lực phù Trưng.
(Câu đối ở đền thờ Phật-Nguyệt)
Dịch: Một trận Động-đình oai trấn Hán,
Danh ghi thanh sử sức phù Trưng.
Khi Địch Thanh nhảy lên nóc điện, y thấy hai lão già đứng trơ như gỗ. Thuận tay
y phát hai chiêu tấn công hai lão một lúc. Hai lão vung tay đỡ. Thành ra Địch
Thanh bị lĩnh tới hai chưởng. Y bật lui lại, khí huyết đảo lộn, tai phát ra
tiếng kêu vo vo rất khó chịu. Mặt choáng váng.
Sau chiêu đầu, lão họ Lê lùi lại, còn lão họ Tôn đánh liền năm chiêu, cứ mỗi
chiêu lão lại lùi một bước, cử chỉ ung dung nhàn nhã. Địch Thanh nhận thấy võ
công lão Lê khắc chế với võ công của y. Mỗi chiêu lão đánh ra hời hợt, mà khiến
y lao đao chống đỡ.
Biết gặp kình địch, nếu tiếp tục đánh sẽ bị nhục, Địch Thanh chắp tay hành lễ:
_ Địch Thanh thuộc phái Hoa-sơn, tuân chỉ Bình-Nam vương gia lên mời hai vị
xuống xơi ít chung rượu.
Lão họ Tôn cười nhạt:
_ Thì ra người là Địch Thanh ăn cắp vàng ở công khố Đại-Việt bị bắt đấy ư? Uổng
cho người đạt được võ trạng, mà hành động nông nổi. Ta nghe rõ ràng chúa ngươi
sai ngươi lên mời bọn ta xuống uống rượu. Thế mà ngươi vừa lên, đã phát chưởng
đánh chúng ta. Ta hỏi người, đây là phép tiếp khách của phái Hoa-sơn hay của phủ
Định-vương ?
Địch Thanh thẹn chín người. Y chưa biết trả lời sao, thì Đông-Sơn lão nhân đã
lên nóc điện. Lão chắp tay hướng hai lão Tôn, Lê:
_ Tiểu đồ trẻ người con dạ, có đôi chút mạo phạm. Mong hai vị thứ lỗi. Chủ nhân
của bần đạo lúc nào cũng khuất thân cầu hiền tài. Nào, mời hai vị xuống xơi mấy
chung rượu.
Tôn, Lê cười ha hả:
_ Đã vậy hai lão già nhà quê này đành cung kính tuân lệnh.
Hai lão nhảy xuống, hướng Bình-Nam vương hành lễ:
_ Chúng tôi họ Tôn, họ Lê, dân Tống, gốc người Cửu-chân, xin tham kiến vương
gia.
Triệu Thành nghĩ thầm:
_ Chủ đạo tộc Việt huyền diệu thực. Cứ như hai lão này xưng, lão là dân Tống, ắt
sinh trưởng tại Trung-thổ. Thế nhưng lão lại tự hào gốc Cửu-chân.
Bình-Nam vương đi một vòng giới thiệu:
_ Vị này là nghĩa đệ của Cô-gia, người Việt như hai vị, tước phong Khai-Quốc
vương, đang trên đường đi sứ Đại-Tống.
_ Thực hân hạnh! Tương lai biên sự Tống-Việt cùng hạnh phúc tộc Việt-Hán nằm
trong tay hai Vương.
_ Vị này là minh sư của cô gia.
_ Minh-Thiên đại sư đắc pháp rồi, mà lòng đối với tộc Hán chưa dứt, còn lẩn quẩn
lăn vào đời, mong giải thoát chúng sinh. Người hẳn là Bồ-tát A-di-đà phân thân
vậy.
Hai lão tỏ ra bặt thiệp, đối với ai lão cũng cung kính, đưa lời khiêm nhường.
Khác hẳn với ngôn từ khinh bạc khi mắng Địch Thanh. Kiến thức hai lão quảng bác
vô cùng. Những nhân vật chính thành danh như Đông-Sơn lão nhân, lão biết đã
đành, đến những nhân vật trẻ như Lê Thiếu-Mai, Quách Quỳ lão cũng biết tường
tận. Cứ mỗi người được giới thiệu, lão lại đưa ra câu khuyến khích.
Bình-Nam vương giới thiệu xong, cung kính:
_ Mời hai vị nhập tiệc.
Từ lúc thấy hai lão Tôn, Lê, Định-vương Nguyên-Nghiễm nhận thấy khuôn mặt hai
lão rất quen, mà không nhớ đã gặp ở đâu. Vương ngồi suy nghĩ cố tìm cho ra.
Hai lão nháy mắt nhìn Khai-Quốc vương, ngụ ý coi như chưa biết nhau. Bình-Nam
vương mời hai lão ngồi dưới Khai-Quốc vương, do Dư Tĩnh bồi tiếp.
Theo lễ nghi tộc Hán, Việt, hai lão là khách mới, được mời ngồi ở vị thế cao.
Đáng lẽ Minh-Thiên hay Đông-Sơn lão nhân bồi tiếp. Nhưng vì hai vị là nhà tu,
ngồi riêng một cỗ chay, không uống rượu, vì vậy Dư Tĩnh có địa vị cao thứ nhì
sau Bình-Nam vương ngồi với hai lão.
Địch Thanh hận lão Tôn làm nhục mình. Y rót chung rượu đưa ngang mày:
_ Vãn sinh vô phép, nay xin có chung rượu tạ lỗi với tiền bối.
Chung rượu từ tay y bay vù hướng mặt lão Tôn, kình lực rít vo vo, nhưng tuyệt ở
chỗ không một giọt nào rơi ra ngoài. Lão Tôn vòng tay một cái, chung rượu bay
chậm lại, rượu vọt lên thành dây bắn vào miệng lão. Lão uống luôn. Còn chung bay
ngược trở về chỗ Địch Thanh. Địch Thanh vội xòe tay bắt lấy. Nhưng tay y vừa
chạm vào, chiếc chung vỡ tan thành mấy trăm mảnh nhỏ bay vọt qua đầu y.
Kẻ mời, người tiếp, đều dùng tuyệt kỹ thần công, mọi người vỗ tay hoan hô.
Dư Tĩnh rót rượu mời hai lão uống, cùng ăn thịt. Tửu lượng hai lão rất cao. Dư
rót bao nhiêu, hai lão cũng không từ, uống sạch. |