Bàn thờ vọng ngày nay khá
phổ biến, áp dụng cho con cháu sống xa quê, hướng vọng về quê, thờ cha mẹ
ông bà tổ tiên, hương khói trong những ngày giỗ, tết. Ngày xưa, với nền
kinh tế nông nghiệp tự cung, tự cấp, người nông dân suốt đời không rời quê
cha đất tổ, chuyển cư sang làng bên cạnh cũng đă gọi là biệt quán, ly hương,
v́ vậy bàn thờ vọng chỉ là hiện tượng cá biệt và tạm thời, chưa thành
phong tục phổ biến.
"Vọng bái ", nghĩa là vái lạy từ xa. Ngày xưa, khi triều đ́nh có những điển
lễ lớn, các quan trong triều tập trung trước sân rồng làm lễ, các quan ở
các tỉnh hoặc nơi biên ải, thiết lập hương án trước sân công đường, thắp
hương, nến, hướng về kinh đô quỳ lạy Thiên tử. Khi nghe tin cha mẹ hoặc
ông bà mất, con cháu chưa kịp về quê chịu tang, cũng thiết lập hương án
ngoài sân, hướng về quê làm lễ tương tự. Các bàn thờ thiết lập như vậy chỉ
có tính chất tạm thời, sau đó con cáo quan xin về cư tang ba năm (xem bài
Lễ Cư tang). Các thiện nam tín nữ hàng năm đi trẩy hội đền thờ Đức Thánh
Trần ở Vạn Kiếp, đức Thánh Mẫu ở Đền Ṣng v.v... dần dần về sau, đường sá
xa xôi, cách trở, đi lại khó khăn, cũng lập bàn thờ vọng như vậy. Nơi có
nhiều tín đồ tập trung, dần dần h́nh thành tổ chức. Các thiện nam tín nữ
quyên góp nhau cùng xây dựng tại chỗ một đền thờ khác, rồi cử người đến
bàn thờ chính xin bát hương về thờ. những đền thờ đó gọi là vọng từ (thí
dụ ở số nhà 35 phố Tôn Đức Thắng Hà Nội có "Sùng Sơn vọng từ" nghĩa là Đền
thờ vọng của núi Ṣng, thờ thánh Mẫu Liễu Hạnh).
Bàn thờ vọng ông bà cha mẹ chỉ được tập trung trong trường hợp sống xa quê.
Những người con thứ, bất cứ giàu nghèo, sang hèn thế nào, nếu ở gần cánh
cửa trưởng trên đất tổ phụ lưu lại, th́ đến ngày giỗ, ngày tết, con thứ phải
có phận sự hoặc góp lễ, hoặc đưa lễ đến nhà thờ hay nhà con truởng làm lễ,
cho dù cửa trưởng chỉ thuộc hàng cháu, th́ chú hoặc ông chú vẫn phải thờ
cúng ông bà tại nhà cửa trưởng. Do đó không có lệ lập bàn thờ vọng đối cửa
thứ ngay ở quê nhà. Nếu cửa trưởng khuyết hoặc xa quê, th́ người con thứ 2
thế trưởng được lập bàn thờ chính, c̣n bàn thờ ở nhà người anh cả ở xa quê
lại là bàn thờ vọng.
Phong tục rất hay và rất có ư nghĩa. Bởi lẽ chữ Hiếu đi đôi với chữ Đệ.
Khi sống cũng như đă mất, ông bà cha mẹ bao giờ cũng mong muốn anh chị em
sống ḥa thuận, một nhà đầm ấm. Thỉnh vong hồn về cầu cúng lễ bái, mà anh
chị em ở gần nhau không sum họp, mỗi người cúng một nơi, th́ đó là mầm
mống của sự bất hoà, vong hồn làm sao mà thanh thản được.
Cách lập bàn thờ vọng:
Chưa phải là phong tục cổ truyền, chưa có nghi lễ nhất định, mà chỉ là
kinh nghiệm truyền cho nhau khoảng đầu thế kỷ lại nay tuỳ hoàn cảnh thuận
tiện mà vận dụng: Khi bắt đầu lập bàn thờ vọng phải về quê chính báo cáo
gia tiên tại bàn thờ chính. Sau đó xin phép chuyển một lư hương phụ hoặc
mấy nén hương đang cháy giở mang đến bàn thờ vọng rồi thắp tiếp. Nếu có
nhà riêng, tương đối rộng răi khang trang, th́ bàn thờ đặt hẳn một pḥng
riêng chuyên để thờ cúng cho tôn nghiêm, hoặc kết hợp đặt ở pḥng khách,
nhưng cao hơn chỗ tiếp khách. Nếu đặt bàn thờ gia thần riêng, th́ phải đặt
thấp hơn bàn thờ gia thần một ít. Đặt hướng nào? - Hướng về quê chính, để
khi người gia trưởng thắp hương vái lạy thuận hướng vái lạy về quê. Thí dụ
người quê miền Trung sống ở Hà Nội th́ đặt bàn thờ vọng phía Nam căn pḥng
hay ngoài sân, ngoài hiên. Không nên đặt bàn thờ trong buồng ngủ, trừ trường
hợp nhà chật hẹp quá th́ phải chịu. Không nên đặt cạnh chỗ uế tạp, hoặc cạnh
lối đi. Đối với những gia đ́nh ở khu tập thể nhà tầng, nếu câu nệ quá th́
không c̣n chỗ nào đặt được bàn thờ. Những người sống tập thể, chỉ đặt một
lọ cắm hương đầu giường nằm của ḿnh cũng đủ, miễn là có ḷng thành kính,
chẳng cần phải câu nệ hướng nào, cao thấp rộng hẹp ra sao. |