Tiền "cheo" là khản tiền nhà trai nạp cho làng xã bên nhà gái. Trai gái cùng
làng xã lấy nhau cũng phải nạp cheo song có giảm bớt. Xuất xứ của lệ "Nạp cheo"
là tục "Lan nhai" tức là tục chăng dây ở dọc đường hoặc ở cổng làng. Đầu tiên
thì người ta tổ chức đón mừng hôn lễ, người ta chúc tụng, có nơi còn đốt pháo
mừng. Để đáp lễ, đoàn đưa dâu cũng đưa trầu cau ra mời, đưa quà, đưa tiền biếu
tặng. Dần đần có những người làm ăn bất chính, lợi dụng cơ hội cũng chăng dây,
vòi tiền, sách nhiễu, trở thành tục lệ xấu. Vì thói xấu lan dần, gây nhiều cản
trở, triều đình phải ra lệnh bãi bỏ. Thay thế vào đó, cho phép làng xã được thu
tiền cheo. Khi đã nạp cheo cho làng, tức là đám cưới được làng công nhận có giấy
biên nhận hẳn hoi. Ngày xưa, chưa có thủ tục đăng ký kết hôn, thì tờ nạp cheo
coi như tờ hôn thú. Nạp cheo so với chăng dây là tiến bộ. Khoản tiền cheo này
nhiều địa phương dùng vào việc công ích như đào giếng, đắp đường, lát gạch, xây
cổng làng...Nhưng nhiều nơi chỉ cung đốn cho lý hương chè chén. Đã hơn nửa thế
kỷ, lệ này bị bãi bỏ rồi. Thanh niên ngày nay chỉ còn thấy bóng dáng của tiền
cheo qua ca dao- tục ngữ.
- Nuôi lợn thì phải vớt bèo
Lấy vợ thì phải nộp cheo cho làng.
- Cưới vợ không cheo như tiền gieo xuống suối.
- Ông xã đánh trống thình thình
Quan viên mũ áo ra đình ăn cheo.
- Lấy chồng anh sẽ giúp cho
Giúp em...
Giúp em quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.
Thật quá cường điệu, Chứ tiền cheo không thể vượt quá tiền cưới.
|