Ông Trời Là Ai ?   Tôn Giáo Là Ǵ ?   Kiếp Người Ra Sao ?

VII.- CHIẾN TRANH TÔN GIÁO

Nếu bạn đă đọc kỹ sách này, đến đây chắc bạn đă biết rơ con đường lên thiên đàng hay vào niết bàn không bằng sự xá tội hay chuộc tội, dù bạn có dâng tiền muôn, bạc triệu cúng dường cho giặc thầy chùa, hay nghe lời các cha cố, mục sư cầu nguyện đến mỏi cả mồm. Bởi v́ Thượng Đế không cần đến bất cứ một hạng trung gian thông dịch nào. Ngài là đấng toàn tri, toàn năng siêu việt mà!
Từ bản chất Thượng Đế không có ǵ cho chúng ta phải khiếp hăi, nhưng bọn người mệnh danh tu hành, tự nhận là con cái của Chúa , của Phật, phục vụ Chúa; Phật... mới thật là nguy hiểm, rất đáng sợ!
Từ mấy ngàn năm qua, giới người ấy đă đưa chúng ta lạc lối vào vùng sa mạc băng giá mênh mông đầy hiểm họa. Nhưng hiểm họa tai hại nhất cho loài người từ xưa đến nay vẫn là chiến tranh tôn giáo. Mặc dù các tôn giáo ấy đều cùng một xuất xứ như các đạo:  Zarathoustra (Zoroastre), Bà La Môn, Ấn Giáo, Phật Giáo, đạo Janie, Tân Qui (Tantrisme), Hồi giáo, Du Già Do Thái, Thiên Chúa, Tin Lành, Chính Thống v.v....Tất cả đều phát xuất cùng một nguồn gốc và cùng một loại chủng tính như nhau, ví chẳng khác nào như những người anh em cùng một cha mẹ sinh ra. Nhưng khi lớn khôn, v́ tranh giành địa vị và miếng ăn, nên đă trở thành những con gà bôi mặt đá nhau, thậm chí tàn sát lẫn nhau không gớm tay đến tận cùng con đỏ, mà danh từ thời thượng gọi là thánh chiến hay chiến tranh tôn giáo!
Mặc dù đạo nào cũng tuyên xưng phụng thờ Thượng Đế toàn năng, toàn tri, và dạy con người làm điều thiện hảo, để linh hồn được lên cơi Thiên Đàng; nhưng chính các tôn giáo ấy lại chứa chất đầy hận thù và kèn cựa lẫn nhau. Đạo này bêu riếu Thượng Đế hay thần thánh của đạo kia, thậm chí tố khổ nhau là dị giáo, tà giáo, ngoại đạo v.v..., rồi xúm vào giết tróc lẫn nhau. Để chứng minh, tôi xin dẫn ra đây vài bằng cớ điển h́nh, kể từ nguồn gốc giống nhau cho đến những cuộc tàn sát đẫm máu đă diễn ra ṛng ră hàng mấy ngàn năm, đến tận bây giờ vẫn chưa dứt.
 
KHÔNG KHÁC G̀ NHAU!
 
Từ thời cổ đại, tuy ai cũng biết các tôn giáo trên thế giới từ xưa tới nay chưa hề có một tôn giáo nào gọi là thuần túy (pure) hết thảy. Chủ thuyết, phong tục, tập quán...của các tôn giáo đều giống nhau không ít th́ nhiều. Nhưng phải đợi măi đến thời Phục Hưng (Renaissance) và sau phong trào cải cách tôn giáo (Réforme), khoảng thế kỷ XVI sau TC, những kẻ có tín ngưỡng bạo gan nhất mới dám dè dặt đề cập đến sự giống nhau của các tôn giáo, mà không bị ṭa án dị giáo khép vào tội phù thủy, báng đạo...
Đạo Du Già Do Thái đă bắt chước tục cắt da bọc qui đầu (circoncision) của tôn giáo Ai Cập, và cóp những huyền thoại về sự sáng tạo thế giới của dân Mésopotamie (vùng Lưỡng Hà, ở Irak ngày nay), góp nhặt chuyện Thiên Thần, Thiên Đàng của người Iran, và mượn luôn cả h́nh thức xây dựng giáo đường synagogue của người Hy Lạp. C̣n Thượng Đế độc nhất của Du Già giáo, dân Do Thái đă nhái theo tục thờ thần Akhénaton duy nhất của dân Ai Cập và thần Ahura Mazda của đạo Zoroastre ở Ba Tư (Iran).
Xét về giáo lư, chẳng những chỉ dùng toàn bộ Cựu Ước Kinh (Ancien Testament), kinh Torah, kinh Talmuds, và lịch sử dân tộc Do Thái làm kinh điển cơ bản của ḿnh, đạo Thiên Chúa (nói chung, kể cả Tin Lành và Chính Thống), c̣n cóp nhặt, pha trộn lẫn lộn thêm các triết thuyết ái t́nh thuần khiết (amour platonique) và pháp tu khổ hạnh theo chủ nghĩa khắc kỷ (Stoicisme) của Hy Lạp. Hơn thế, đạo TC c̣n nhái theo cả chủ trương thể xác hồi sinh (résurrection de la chair) của Do Thái. Nhất là tục thờ thánh nữ đồng trinh Marie (mẹ chúa Jésus) chứng tỏ đạo TC đă bắt chước tục thờ nữ thần trinh tiết Athéna, hay Diane của Hy Lạp và La Mă.
Nhận xét về Ông Trời của các tôn giáo, ta thấy Ông Trời Do Thái có tính sáng tạo nhưng không sinh sản. Ông Trời của Hy Lạp và La Mă có khả năng sinh sản nhưng không sáng tạo. Trong khi đó, nhờ sinh sau đẻ muộn, TCG đă sát nhập luôn 2 loại Ông Trời Do Thái và Hy Lạp-La Mă vào chung với nhau, tạo ra một Ông Trời khác đầy đủ hơn, vừa có tính sáng tạo (tạo ra thế giới) vừa có khả năng sinh sản (đẻ ra Chúa Con là Jésus)!
Nh́n vào Hồi giáo, ta nhận thấy rơ sự tổng hợp hai đạo Du Già và Thiên Chúa. Du Già: do liên hệ huyết thống, anh em cùng cha khác mẹ (con của Abraham), cùng chủ trương thờ độc thần. Thiên Chúa: do ḷng tôn kính chúa Jésus Christ và ḷng ngưỡng mộ đức trinh trắng của bà Marie. Hồi giáo cho rằng chúa Jésus là hiện thân của loại người một bản chất (monophysiste), thuần túy là người của Thượng Đế, nhưng không phải Thượng Đế.
C̣n đạo Phật chịu ảnh hưởng khá sâu đậm thuyết Samsâra của Vệ Đà (Védisme) và Bà La Môn giáo hay c̣n gọi là Ấn Giáo. Về sau, khi đạo Phật lưu vong ra khỏi Ấn Độ đă hội nhập với các khuynh hướng tín ngưỡng và tư tưởng triết lư khác như: Thần Đạo, Lăo Giáo và Khổng Giaó của các nước trong vùng Đông Á như : Tàu, Nhật v.v...
 
Tuy các đạo ấy đều xuất phát cùng một nguồn gốc, và chịu ảnh hưởng lẫn nhau về mọi mặt, từ chủ thuyết đến lễ tục..., nhưng v́ đạo nào cũng có một ḍng máu hận thù sâu đậm, với tham vọng chúa tể hoàn cầu, nên không bao giờ có thể dung nạp nhau được (ngoại trừ Phật Gíao)!
Thí dụ: Trong thánh kinh đạo Du Già của dân Do Thái đă có hẳn luật báo phục(Talion), nợ sao trả vậy, không khoan nhượng, không tha thứ! Luật này được thi hành trong mọi trường hợp cá nhân ngoài xă hội, và ứng dụng cả vào sự trừng phạt, hoặc bồi thường tương xứng, trong lănh vực luật pháp và công lư của quốc gia. Thí dụ như bộ luật báo thù Hammourabi (điều 153) ghi rơ: Người vợ giết chồng sẽ bị xử tử h́nh, bằng cách đóng cọc vào lỗ đít (par empalement).
Thông thường luật Do Thái luôn luôn xử phạt nặng hơn sự thiệt hại gây ra bởi tội trạng. Thí dụ: Cũng trong bộ luật báo thù này (điều 22), một kẻ phạm tội cướp rất nhỏ, hết sức tầm thường, cũng bị xử tử h́nh. Thậm chí đến nỗi một cô bé chiêu đăi rượu, bán quá giá một ly bia cũng bị khép vào tội tử h́nh (điều 108).
Việc thi hành luật báo phục Talion từ xưa đă gây nên nhiều tranh căi, nhiều phê phán. Chẳng hạn như trong vài trường hợp thuộc phạm vi t́nh dục, thánh kinh Do Thái đă gạt bỏ hẳn nguyên tắc: ngang bằng, cân xứng giữa tội phạm và h́nh phạt, để xử tội thật gắt gao, nặng nề quá đáng. Thí dụ như tội: giao hợp với thú vật (zoophilie), tội kê giao, lắp đít (sodomie) của nam giới, và tội ngoại t́nh, thông dâm với một phụ nữ đă có chồng...đều bị xử tử h́nh (Lévitique, đoạn 20)...
Đến khoảng năm 315, khi TCG trở nên có thế lực mạnh và quyền hành vô địch trong đế quốc La Mă, đạo này cũng tỏ ra đă thấm nhiễm sâu đậm tính chất dă man, tàn bạo của đạo Du Già Do Thái.
Trong thánh kinh Du Già của dân Do Thái, luật báo thù (Talion) đă được người viết kinh ân cần nhắc đi, nhắc lại đến 3 lần: Ngươi sẽ không phải chờ đợi ǵ cả: mạng đổi mạng, mắt đổi mắt, răng đổi răng, chân đổi chân (Deutéronome 19, 21). Nhưng nếu gây thiệt hại cho loài gia súc, người phạm tội có thể được dùng tiền bồi thường tương xứng, để khỏi bị xử theo luật Talion:Nếu gây thiệt mạng cho một người, bất cứ hạng người nào, phạm nhân sẽ bị xử tử h́nh. Nếu gây tử thương cho một con vật, kẻ phạm tội sẽ phải bồi thường tương xứng (Lévitique 24, 17).
 
Đọc kinh Coran của giáo chủ Mahomet, ta thấy cũng chứa đựng đầy rẫy những yếu tố pháp lư và chính trị có tầm vóc cực kỳ quan trọng. Nhất là luật Charia, xem qua chẳng khác nào luật báo phục, trả thù (Talion) của dân Do Thái.
Đôi khi trong các lănh vực sát nhân, bội giáo hay phản đạo (apostagie), và tội ngoại t́nh (adultère), luật Charia của Hồi giáo c̣n có phần khắc nghiệt hơn. Đặc biệt là điều luật buộc nữ tín đồ ra đường phải trùm khăn (tchador, hidjab).
Thực ra, tục lệ phụ nữ trùm khăn trên đầu đă có từ hàng ngàn năm trước khi giáo chủ Mahomet ra đời. Tục này phát sinh do luật của dân Assyrie (căn cứ trên cổ liệu: bản đất nung A, 40), thuộc triều đại vua Téglat- Phalazar đệ Nhất (khoảng 1000 năm trước TC), dành cho các hạng đàn bà, con gái, vợ hoặc thứ thiếp của những người tự do, không thuộc thành phần nô lệ, cũng như cho các hạng nữ nô lệ thờ phụng (hiérodules) đă có chồng.
Ngược lại, các hạng thánh đĩ, tức gái làng chơi mộ đạo (prostitués sacrées) không có chồng, hoặc hạng đĩ điếm tầm thường và giới nữ nô lệ không được phép trùm khăn. Để ngăn ngừa những kẻ ngoan cố, hành động vượt pháp, cứ giả vờ làm con nhà lành, trùm khăn bừa, luật giáo h́nh phạt tội cực nặng: đánh bằng gậy và chọc thủng tai!
Thánh kinh Du Già- Thiên Chúa cũng nêu vấn đề này trong các quyển Genèse (24, 65) và chương Cantique des Cantiques (4, 1), chẳng khác nào luật nguyên thủy của người Assyrie, coi những người đàn bà để đầu trần, không trùm khăn thuộc hạng đĩ điếm. V́ thế thánh Paul đă yêu cầu các giới phụ nữ lúc cầu nguyện, hay khi đến nhà thờ nên trùm khăn trên đầu (1 Corinthiens 11,5). Từ đó tục trùm khăn của phụ nữ theo các đạo Thiên Chúa, Du Già, Hồi giáo trở nên có tính cách tôn giáo. Ngoài ra, nhà tu khổ hạnh Tertullien c̣n viết một câu nguyên văn: Une jeune fille sans voile nest plus vierge (một người con gái không trùm khăn tức đă bị mất trinh rồi)!...
Tóm lại, luật trả thù Talion trong kinh Torah của Do Thái và luật Charia trong kinh Coran của đạo Hồi, một phần lớn, xem ra chẳng khác nào những bộ luật tổng hợp đủ mọi thứ: dân sự, phong tục, h́nh sự, hay luật thương măi của loài người thế tục, chẳng có chút ǵ cao siêu, thánh thiện cả!
 
CÁC TÔN GIÁO GIẾT NHAU
 
Trừ một số trường hợp đặc biệt, loài người cùng một huyết thống thường bảo bọc lấy nhau, và thú vật cùng một loài, như cọp, beo, sư tử...không bao giờ ăn thịt lẫn nhau. Nhưng ngược lại, trong phạm trù tôn giáo, con người sùng đạo, dù là đồng chủng, cùng huyết thống, vẫn có thể nhân danh Chúa, Phật, Allah, Yahweh... tàn sát nhau cực kỳ tàn bạo mà không hề sợ mang tội!
Dưới đây là một bảng thống kê sơ sài, tóm lược các cuộc thánh chiến và chiến tranh tôn giáo của nhân loại từ thời bắt đầu có tín ngưỡng đến nay:
Kể từ sau khi Jésus Christ qua đời, đạo TC của ngài đă bị quân La Mă thảm sát. Nhưng đến khi hoàng đế La Mă Constantin I (274- 337) cải đạo, TCG được quốc gia bảo vệ, lập tức quay sang tàn sát bất cứ ai không tin Chúa.
Đến khoảng thế kỷ IV, năm 356, TCG ban hành một sắc lệnh dẹp tức khắc tất cả mọi đền thờ ngoại đạo, và xử tử h́nh những ai thờ ngoại đạo. Đến năm 438, một lần nữa TCG ra lịnh cấm tín đồ đạo Du Già lấy vợ đạo TC, cấm mở thêm nhà giảng Synagogue, cấm người Do Thái thi hành những trách vụ công cộng, cấm cắt da bọc qui đầu, có nghĩa cấm người TC cải đạo theo Du Già giáo...Mặt khác , những người TC ly khai, theo tà giáo, ngoại đạo, bị tước mất quyền tự do tín ngưỡng, tức bị cấm cư ngụ trong thành phố, cấm hội họp, dù là trong phạm vi riêng tư. Nhất là cấm tiệt mọi h́nh thức liên lạc, kể cả thơ từ, thỉnh nguyện lên hoàng đế. Trong một cuộc hội họp riêng, nếu có người dị giáo tham dự, căn nhà dùng làm nơi hội họp bị tịch thâu, sách vở bị đốt trước sự chứng kiến của pháp quan, và những kẻ phạm pháp bị xử tử h́nh. Theo luật, trên quan điểm phong tục, tập quán, những kẻ dị giáo bị liệt vào thành phần chẳng giống ai, và cũng chẳng giống bất cứ một thứ ǵ trong vũ trụ này. V́ vậy, phải bị tiêu diệt hết !
 
NHỮNG CUỘC VIỄN CHINH CỦA QUÂN THẬP TỰ GIÁ
 
Jérusalem là mảnh đất hứa của dân Do Thái, thành phố thiêng của đạo Du Già, song cũng là thánh địa của TCG. Đến năm 638, Jérusalem bị quân Hồi giáo đánh chiếm. Lập tức các đoàn quân viễn chinh mang dấu hiệu chữ Thập được phái đi đánh chiếm lại vùng đất thánh có ngôi mộ của chúa Jésus, đồng thời c̣n để thành lập một pháo đài Thiên Chúa kiên cố ngay giữa ḷng Hồi giáo.
Từ vùng Tiểu Á, quân Hồi giáo tiến về hướng Tây, gặp sức kháng cự quyết liệt của TCG. Tại Jérusalem, nhà cầm quyền Hồi giáo lúc bấy giờ tỏ ra nhân nhượng chút đỉnh cho những cuộc hành hương TCG, nhưng sau cuộc đăng quang của Seldjoukides (Saljuqides) các tín đồ TCG hành hương không được phép vào Jérusalem nữa.
Năm 1701, những bộ lạc du mục Thổ Nhĩ Kỳ xâm chiếm đế quốc Byzantin. V́ không đủ lực lượng pḥng thủ, vua Alexis I đă phải cầu cứu đức giáo hoàng, xin gửi các đoàn quân chữ Thập đánh giặc mướn đến cứu nguy.
Cuộc xung đột thực sự nghiêm trọng xảy ra giữa TCG và Hồi giáo bắt đầu từ năm 1905, khi giáo hoàng Urbain II gửi đoàn quân chữ Thập đến giải nguy đất thánh.
Đoàn quân thập tự giá này hứng khởi cương quyết lên đường chinh chiến, với niềm tin chắc chắn sẽ đoạt được thiên đàng, sống hoặc chết tại chiến trường. Nhưng trong số cũng có lắm kẻ chỉ nghĩ đến chiến lợi phẩm, tiền bạc, quyền lực, và mơ ước trở nên những bậc anh hùng trong huyền thoại. Ngày 15. 8.1096, Pierre lErmite với đoàn quân chữ Thập gồm 4.500 kỵ binh, 30.000 bộ binh, cộng thêm hàng ngàn phụ tá dân sự và dân hành hương, lên đường đầy triển vọng...
1.- Cuộc viễn chinh thứ nhất (1096-1099). Đoàn quân Thập Tự Giá đầu tiên do giáo hoàng Urbain II thành lập, phần đông đều thuộc thành phần tín đồ hành hương, đặt dưới quyền chỉ huy của Gautier Sans Avoir và Pierre lErmite, để giải phóng Jérusalem đang bị quân Thổ chiếm đóng. Đoàn quân viễn chinh này chẳng có một chút kinh nghiệm ǵ về quân sự, mù tịt về địa dư, đến nỗi không biết phải vượt qua lănh thổ các nước nào trước khi đến được Jérusalem. Tuy nhiên, được trang bị bằng đức tin, họ cứ thế nhắm mắt tiến về hướng Đông.
Dọc đường, v́ thiếu lương thực, đoàn quân thánh chiến ô hợp này đă mau chóng biến chất, trở thành một đạo quân thổ phỉ cực kỳ dă man, cướp phá suốt từ miền Tây đến miền Đông, gieo rắc không biết bao nhiêu thảm cảnh thê lương cho quần chúng vô tội.
Lúc bấy giờ quốc vương Hung Gia Lợi, tuy cũng là một tín đồ TCG, nhưng trước cảnh cướp phá, chém giết bạo tàn của đoàn quân Thánh Chiến, đành phải ra mặt tổ chức lực lượng dân quân đối chọi. V́ thế đoàn quân ô hợp này đă bị tan ră dọc đường. Một số ít sống sót, bỏ chạy qua hàng ngũ quân Thổ để nương thân...
Một năm sau, rút kinh nghiệm lần trước, đoàn quân chữ Thập khác do Godefroi de Bouillon cầm đầu, vẫn theo đuổi mục tiêu giải phóng thánh địa Jérusalem và mộ Chúa Saint- Sépulcre. Lần này đoàn quân đông tới cả trăm ngàn tín đồ hành hương, đặt dưới sự chỉ huy của 40.500 dũng sĩ từng quen chiến trận. Trong số, phần đông đều là con thứ của các gia đ́nh quí tộc, theo luật trưởng nam thừa kế (droit dainesse), không được hưởng quyền chia đất, phong ấp.
Núp dưới danh nghĩa tôn giáo, những nhà quí phái trẻ tuổi mất quyền thừa kế ấy hy vọng trên con đường viễn chinh sẽ chiếm được các lâu đài, hay đoạt được đất đai ở ngoại quốc, để tự gây dựng lấy cơ đồ. Bởi thế, dọc đường, khi chiếm được một lâu đài nào, hay một vùng đất nào, những nhà quí tộc trẻ tuổi ấy liền đào ngũ ngay, ở lại định cư lập nghiệp tại chỗ. Nhiều khi v́ tranh giành một địa điểm, hay cướp giựt những tài sản lớn lao, họ đă không ngại ǵ trở mặt quay lại chém giết lẫn nhau. Trường hợp điển h́nh đáng kể làm thí dụ là hoàng tử Bohémond de Tarente, ngày 2. 6. 1098, đă khéo dùng mưu lược đánh chiếm được thành Antioche (Antakya), vơ vét hết của cải trong thành làm tài sản cá nhân, rồi ở lại chiếm giữ luôn.
V́ ḷng tham, các nhà quí tộc trẻ tuổi trong đoàn quân Thập Tự c̣n tiến xa thêm một bước quan trọng, đầy hiểm nguy khác nữa là: liên kết với các vị tiểu vương Hồi giáo ở Đông Phương, để chống chọi lẫn nhau. Từ đó chẳng c̣n ai biết ai thuộc phe nào, theo khuynh hướng nào. Thậm chí đến mức, chẳng c̣n ai biết chống ai, giết ai v́ lư do ǵ, hay bởi mục tiêu nào nữa!
Thế là mục đích tối hậu giải phóng Jérusalem với ngôi mộ Chúa lúc ban đầu kể như chẳng c̣n ai mảy may nhớ đến. Tuy nhiên, cuộc viễn chinh này vẫn đạt được một số thành quả đáng kể như đă đánh bại được quân Thổ trong các trận ở Nicée (26. 6. 1097) và Dorylée (1.7.1097), đẩy lui được quân Seldjoukides ra khỏi vùng Tiểu Á Tây phương. Tuy nhiên, mục tiêu Jérusalem hăy c̣n xa!
Đến ngày 15. 7. 1099 , sau một cuộc bao vây ngắn ngủi và tàn sát đẫm máu 40.000 cư dân Hồi giáo và Du Già giáo, đoàn quân chữ Thập mới chiếm được Jérusalem.
Sau đó, các lực lượng thánh chiến TCG đă chia nhau những vùng đất mới chiếm được, lập nên nhiều lănh ấp để cai trị, như: Edesse, Antioche, Tripoli, vương quốc La Tinh ở Jérusalem, đồng thời xây nên nhiều thành lũy kiên cố để pḥng thủ lâu dài.
Đến ngày 23. 12. 1144, lănh ấp Edesse nằm về phía Đông, lại bị Mossoul Zenghi, một tiểu vương Hồi giáo (Émir) xua quân tái chiếm lại.
2.- Cuộc viễn chinh thứ nh́ (1147- 1149), dưới sự chỉ huy của vua Louis VII và hoàng đế Conrad III, và sự hướng dẫn tâm linh của Bernard de Clairvaux, đoàn quân chữ Thập, gồm 6.500 lính Đức, tiến công đánh chiếm Edesse, bị đánh bại ở Dorylée. Ngày 6.1. 1148, 70.000 quân Pháp bị đè bẹp ở Pisidie. Quân chữ Thập thảm bại đành phải quay về Âu Châu.
Saladin, một chiến sĩ lừng danh tài ba của Hồi giáo, sau khi đă chiếm Ai Cập và Syrie tăng cường áp lực đối với các lănh ấp chữ Thập TCG, và tiêu hủy lần hồi khả năng kháng cự của TCG. Cuộc chiến thắng ở Hattin, ngày 4.7.1187, đă chặt chân vương quốc Thập Tự Giá. Ngày 2. 10. 1187, Saladin chiếm luôn Jérusalem.
3.- Cuộc viễn chinh thứ ba (1189-1192) thực hiện ngay sau cuộc chinh phục của Saladin. Hoàng Đế Phổ Frédéric Barberousse, vua Pháp Philippe Auguste, và vua Anh Richard Coeur de Lion, đáp lời kêu gọi của giáo hoàng Grégoire VIII, thành lập một đoàn quân viễn chinh chữ Thập gồm: 100.000 quân Đức, 20.000 quân Anh, 30.000 quân Pháp. Ngày 17.5.1190, đoàn quân chữ Thập đè bẹp quân Thổ ở Konya, ngày 10.6.1191, chiếm lại vùng Saint Jean dAcre, nhưng chưa đến được Jérusalem, th́ vua Anh Richard Coeur de Lion đă kư kết với Saladin một cuộc hưu chiến tạm thời trong 3 năm. Thành quả gặt được bằng bao nhiêu xương máu trong cuộc viễn chinh này là: từ đây dân TCG được đến Jérusalem... hành hương!!!
 4.- Cuộc viễn chinh thứ tư (1202-1204), không nhắm đánh nhau với quân Hồi giáo, mà đánh dân Byzance, một quốc gia TCG, đă được Venise tài trợ dồi dào. Khởi sự, 20.000 quân Đức, 30.000 quân Pháp, 5.000 quân Flamands và 5.000 quân Ư Đại Lợi tập trung lực lượng tại Venise để nhắm mục tiêu Ai Cập. Nhưng v́ ḷng hám tiền buôn bán, đoàn quân này chuyển hướng về phía Constantinople. Năm 1204, thành phố Constantinople bị cướp phá tan hoang , và trở thành thủ đô của đế quốc La Tinh từ năm 1204 đến 1261.
5.- Cuộc viễn chinh thứ năm diễn ra từ năm 1217 đến năm 1221. Nhưng trước đó, vào năm 1212, một đoàn quân thánh chiến gồm toàn trẻ con vị thành niên, thuộc loại vô công rồi nghề, đă bị tôn giáo nhồi sọ, được thành lập. Đám trẻ con này nêu lư do: Các nhà quí tộc và các giới phụ huynh cao niên đă thất bại trong việc giải phóng thánh địa Jérusalem, bởi v́ tinh thần của họ đă bị ô nhiễm. Thế nhưng, những người trẻ chúng tôi, tinh thần c̣n tinh khiết.(Les adultes et les nobles ont échoué à libérer Jérusalem parce que leurs esprits sont impurs. Or nous sommes des enfants, doc nous sommes purs). (LEncyclopédie du Savoir..., Bernard Werber).
Đoàn thiếu niên tự nhận thanh khiết ấy tập họp nhau, chẳng cần bản đồ địa dư, cứ thế lên đường nhắm thẳng hướng Đông, nơi có Thánh Địa Jérusalem trực chỉ. Tuy mục tiêu nằm trên hướng Đông , nhưng không ngờ họ lại tiến xuống miền Nam Âu, đến vùng thung lũng sông Rhône. Nơi đây, bị thiếu thực phẩm, đám trẻ con thánh chiến này cũng không tránh khỏi định luật tự nhiên là: Đói ăn vụng , túng làm liều, lén lút trổ nghề trộm cắp của nông dân, để sống cầm hơi hầu tiếp tục cuộc hành tŕnh.
Cuối cùng, đoàn trẻ con noi gương người lớn theo đuổi mục tiêu thánh chiến cũng đến được bến cảng Marseille. Trước biển cả mênh mông, đoàn quân thánh chiến con nít ấy vẫn không nản chí, v́ họ được biết rằng, bên kia bờ biển Địa Trung Hải sẽ là nơi có Thánh Địa và ngôi mộ Chúa. Họ quyết định ở lại bến cảng, kiên tâm đợi chờ và t́m phương kế vượt biển.
Một hôm có hai tay tự xưng nhà buôn, gốc người Sicile, xuất hiện, t́nh nguyện dùng chiếc hải thuyền lớn của họ chở tất cả đến thẳng Jérusalem. Đám trẻ con ngây thơ, cuồng tín này cho rằng đây là một phép lạ của Chúa, đă đưa đẩy hai bậc quí nhân ấy đến cứu độ, nên tỏ ra hân hoan, vui sướng vô cùng. Đám trẻ ấy có ngờ đâu hai tay lái buôn kia chính là tay chân của một băng đảng Mafia, chuyên môn cướp của, giết người.
Thế là cả đoàn quân thánh chiến con nít ấy đă bị quân cướp hốt trọn gói lên thuyền, chở thẳng tới Tunis, thủ đô nước Tunisie, thuộc vùng Bắc Phi, bán hết cho làm nô lệ!...
6.- Cuộc viễn chinh thứ sáu tiếp theo từ năm 1228 đến năm 1229.
7.- Cuộc viễn chinh thứ bảy diễn ra từ năm 1248 đến 1254 th́ tắt lịm luôn.
8.- Cuộc viễn chinh thứ tám. Nhưng TCG vẫn chưa chán việc giết chóc, năm 1270, lại mở ra cuộc viễn chinh thứ tám, do vua Louis IX của Pháp điều khiển. Vào tháng ba, 1267, quân chữ thập tiến tới Sardaigne, ngày 18. 7. 1270, đổ bộ lên Tunis. Nhưng chẳng bao lâu sau, đến ngày 25. 8. 1270 đoàn chữ Thập này bị bệnh dịch hạch tấn công nên đành phải bỏ cuộc và tự động tan ră ngay ở Tunis.
Khi triều đại Mamelouks lên cầm quyền, TCG không c̣n hy vọng ǵ thâu hồi lại được thánh địa Jérusalem. Cuối cùng, năm 1291, kho dự trữ lương thực ở Saint Jean dAcre, trái tim của vương quốc Thập Tự Giá, bị quân Hồi giáo đánh chiếm, và chinh phục vĩnh viễn vùng thánh địa. Từ đó mộng thành lập các đoàn quân Thập Tự Giá về giải phóng Jérusalem đành tan như bọt bong bóng!
 
NHỮNG CUỘC CHIẾN TRANH TÔN GIÁO
 
  Danh từ chiến tranh tôn giáo phát xuất từ các cuộc tàn sát khủng khiếp do TCG La Mă áp dụng đối với các khuynh hướng canh tân tôn giáo và ly giáo của các phái Chính Thống (Orthodoxe) và Tin Lành (Protestantisme). Khởi từ năm 1.526 cho đến năm 1598, tại Âu Châu đă diễn ra cả thảy 9 cuộc chiến tranh tôn giáo cực kỳ rùng rợn. Xin tóm lược để dẫn chứng như sau:
1.- Cuộc chiến thứ nhất (1562-1563). Ngày 1.3.1562, binh sĩ của công tước De Guise tàn sát 300 tín đồ Tin Lành ở Wassy (Haute-Marne). Đến tháng 9. 1562 Nữ Hoàng Élisabeth I viện trợ cho Tin Lành. Ngày 19.12.1562, quân TCG chiếm Dreux (Eure-et-Loir). Ngày 18.2.1563, trong cuộc vây hăm Orléans, Francois de Gui bị ám sát chết. Ngày 19.3.1563, Catherine de Médicis kư thỏa hiệp Ambroise ḥa b́nh với Tin Lành.
2.- Cuộc chiến thứ nh́ (1567-1568).Cuộc chiến bùng nổ do sự lo lắng của phe Tin Lành trước những điều đ́nh của Catherine de Médicis với triều đ́nh vương quốc Tây Ban Nha. Sau thất bại Meaux (28.9.1567), phe Tin Lành bị Montmorency đánh bại ở Saint Denis vào ngày 10.11.1567 và phải kư thỏa hiệp ḥa b́nh Longjumeau ngày 23.3.1568.
3.- Cuộc chiến thứ ba (1568-1570). Ngày 23.8.1568 là ngày đầu khởi sự cuộc chiến lần thứ ba, bùng nổ ngay sau khi Michel de lHospital bị thất sủng và lệnh truy nă Condé và Coligny. Cuộc chiến này có vẻ kịch liệt hơn mấy kỳ trước , v́ sau những thất bại của phe Tin Lành ở Jarnac (13.3.1569) , và sự thắng trận của phe TCG Moncontour (2.10.1569), đa số các tù nhân phe Tin Lành đều bị giết nguội cách dă man sau khi đă bị bắt.
Trước những mối hiểm nguy đe dọa quốc gia, Catherine de Médicis và viên quan Chưởng Án (thủ tướng )Michel de lHospital cố gắng làm lắng dịu t́nh h́nh bằng vài nhượng bộ cải cách nho nhỏ. Thỏa hiệp Saint-Germain (8.8.1570) cho phép giáo phái Tin Lành được tổ chức lễ bái trong các vùng ngoại ô, là những nơi mà họ vẫn thường thực hiện khi chưa xảy ra chiến tranh, và 4 địa điểm an ninh :Rochelle, Cognac, Montauban, và Charité được miễn thuế nhập thị trong ṿng 2 năm.
4.- Cuộc chiến thứ tư (1572-1573). Lần này, cuộc chiến bùng nổ vào nửa đêm 23 rạng ngày 24.8.1572, ở Paris, tàn sát trên 3.000 tín đồ Tin Lành, gọi là cuộc thảm sát Saint-Barthélemy, theo lệnh của Charles IX và sự xúi giục của Catherine de Médicis và các công tước ḍng họ De Guise. Các cuộc tàn sát tiếp diễn, lan rộng tới Meaux, Orléans, Lyon, và Troyes, kéo dài đến tận tháng 10, khiến 15.000 tín đồ Tin Lành bị thiệt mạng. Từ tháng 2 đến tháng 6, 1573, phe TCG La Mă tấn công và bao cây phe Tin Lành ở Rochelle (Charente-Maritime).
Ngày 11. 7. 1573, chỉ dụ Boulogne cho phép phe Tin Lành được tái thiết lập thờ tự ở Rochelle, Montauban, và Nimes. Cao điểm nhất của cuộc chiến thứ tư này là dự tính chiếm Rochelle của phe TCG La Mă , nhưng bị thất bại.
5.- Cuộc chiến thứ năm (1574-1576). Ngày 10.10.1575, chiến thắng của Henri de Guise ở Dormans (Marne. Ngày 6.5.1576 cuộc chiến kết thúc bởi hiệp ước ḥa b́nh Monsieur hay Beaulieu-lès- Loches (Indre-et-Loire). Nhưng thỏa hiệp ḥa b́nh này đă đem đến cho phe Tin Lành rất nhiều điều lợi:
- Tự do hành động, và được phép thờ cúng ở Paris.
- Thẩm quyền pháp đ́nh chia đôi, có nghĩa: nửa phần TCG , nửa phần Tin Lành.
- Lên án vụ Saint-Barthélemy.
V́ thế nó đă đẻ ra một liên minh TCG dưới quyền chỉ huy của công tước Henri de Guise, để đánh lại phe Tin Lành ở Âu Châu. Sự thành lập liên minh đă được vua Tây Ban Nha Philippe II và giáo hoàng La Mă yểm trợ ngay.
6.- Cuộc chiến thứ sáu (từ tháng 1 đến tháng 9.1577). Ngày 1.5.1577, Monsieur đánh chiếm Charité (Nièvre); ngày 1.6.1577, chiếm Issoire (Puy-de-Dôme). Ngày 15.9.1577, cuộc chiến chấm dứt bằng thỏa hiệp Bergerac (Dordogne) xác định bởi chỉ dụ Poitiers , ngày 17.9.1577.
7.- Cuộc chiến thứ bảy, gọi là cuộc chiến Amoureux (1580). Ngày 30.5.1580, Henri de Navarre chiếm Cahors. Ngày 26.11.1580, cuộc chiến chấm dứt bởi thỏa hiệp ḥa b́nh Fleix (Dordogne) , xác nhận bởi chỉ dụ Nérac (Lot-et-Garonne).
8.- Cuộc chiến thứ tám (1585-1589). Cuộc chiến này c̣n gọi là cuộc chiến của ba ông Henri, gồm : Henri III (vua Pháp), Henri de Bourbon (vua Navarre, lănh tụ đảng Tin Lành, về sau cải hiệu là Henri IV), và Henri de Guise, lănh tụ phe TCG La Mă.
Cuộc chiến bùng nổ tiếp theo thỏa hiệp Nemours (7.7.1585),v́ vua Pháp Henri III tham gia Liên Minh TCG thần thánh (Ligue Catholique) và đơn phương hủy bỏ mọi nhượng bộ trước kia cho phe Tin Lành. Thực sự, trong vụ này, vua Henri III chỉ là con tin nằm trong tay của Liên Minh. Người có tham vọng trở nên vua nước Pháp lúc bấy giờ chính là Henri de Guise, thủ lănh phe TCG, tự coi như là hậu duệ chính truyền của vua Louis V, vị vua cuối cùng của triều đại Carolingiens. Để tự vệ chống lại mọi tai biến, vua Henri III liền triệu tập bộ hạ ám sát chết công tước De Guise (23.12.1588).
 Vụ thánh toán này đă khiến cho tất cả thành viên (ligueurs) nổi dậy, và hậu quả là vua Henri III cũng bị Jacques Clément, một tu sĩ cuồng tín, ám sát chết vào ngày 1.8.1589 , tại Saint Cloud. Trong cơn hấp hối vua Henri III truyền ngôi lại cho người anh em thúc bá là Henri de Navarre, v́ vua Henri III không có con, không anh em, và không cả cháu. V́ thế Henri de Navarre trở nên Henri IV (như tôi vừa nói ở trên).
9.- Cuộc chiến thứ chín (1589-1598). Vua Henri IV là người kế vị hợp pháp, nhưng phe TCG La Mă bác khước, không chấp nhận, bởi v́ ông này là tín đồ Tin Lành. Do lời kêu gọi của Liên Minh Thần Thánh (Ligueur Catholique) quân đội Tây Ban Nha tiến vào Paris, dự kiến yêu cầu nhà vua phải trao ngai vàng lại cho hoàng triều Tây Ban Nha. Hành động chính trị này không ngờ đă đánh thức tinh thần quốc gia của dân Pháp.
Năm 1589, vua Henri IV chiến thắng Arques, năm 1590, thắng trận ở Ivry; nhưng ông vẫn chưa chiếm được Paris, v́ đa số cư dân đều thuộc phe TCG. Để trở lại Paris, ngày 25.7.1593, nhà vua phải quyết định tuyên bố bỏ đạo Tin Lành. Ngày 22.3.1594, ông vào Paris với tư cách một người chiến thắng, nhưng vẫn c̣n phải đánh bại quân Tây Ban Nha để áp đặt thỏa ước ḥa b́nh Vervins ngày 2.5.1598. Từ đó bọn lính đánh thuê Tây Ban Nha phải rút ra khỏi đất Pháp.
 
Các cuộc chiến tôn giáo dai dẳng liên miên đă gây nên không biết bao nhiêu thảm họa điêu tàn tang tóc cho nước Pháp và dân tộc Pháp. Chiến tranh và bịnh truyền nhiễm đă giết chết trên 2 triệu nhân mạng.Vua Henri IV là một bậc anh quân, dũng cảm, có ḷng vị tha, bao dung , và nhất là đặc biệt quan tâm đến hạnh phúc của người dân. Dù vậy, ông vẫn luôn luôn bị tranh chấp. Bọn cựu thành viên trong Liên Minh Thần Thánh TCG vẫn c̣n nuôi trong ḷng mối hận thù đối với nhà vua, nên đă tổ chức mưu sát ông năm 1610. Về phía Tin Lành cũng tỏ ra không mấy hài ḷng với nhà vua, nên đă chuẩn bị dùng vơ lực chống đối quyền lực của triều đ́nh.
Ngày 14.5.1610, vào lúc 4 giờ chiều, trên đường đến đại lộ Khải hoàn Môn (Arc de Triomphe), để thanh tra các công trường kiến trúc, vua Henri IV đă bị Francois Ravaillac, một tên TCG cuồng tín, ám sát chết. Nhà vua đă bị đâm 3 nhát dao găm , và đă tắt thở ở Louvre khoảng một tiếng đồng hồ sau. Biến cố thương tâm này đă chứng tỏ rơ rệt tinh thần khoan dung và ḥa giải tôn giáo của chỉ dụ Nantes vẫn chưa hề thấm vào được chút nào trong đầu của những kẻ cuồng đạo. Như thế cũng đủ cho chúng ta ngày nay nhận ra bộ mặt thật của các tôn giáo, thúc đẩy tín đồ và đôi khi cả một dân tộc vào ṿng chiến tranh khủng khiếp chỉ v́ những nguyên cớ thật thấp hèn, vô cùng bẩn thỉu, hoặc v́ quyền lợi thuần túy cá nhân. Giữa một bầy quỉ dữ cuồng đạo, một vị anh quân thánh thiện như vua Henri IV cũng không được phép sống để đem lại hạnh phúc cho dân tộc!
 
Nhưng như thế vẫn chẳng phải đă hết. Sau đó không lâu, Âu Châu lại xảy ra cuộc chiến 30 năm (guerre de Trente Ans), (1618-1648), bắt nguồn từ sự xung đột giữa 2 phe TCG và Tin Lành ở Hambourg, Đức Quốc, rồi lan rộng ra khắp lục địa Âu Châu, khiến 25.000 người bị thiết mạng!
 
Ngoài chiến tranh giữa TCG La Mă và Tin Lành như đă kể, ta c̣n phải đề cập đến những cuộc chiến tranh tôn giáo khác đă diễn ra giữa hai nước Ấn Độ và Pakistan (Tây Hồi).
Như mọi người đều biết, Ấn Độ có hai tôn giáo lớn hiện hành là: Ấn giáo và Phật Giáo. Trong khoảng từ thế kỷ XII đến XVI, quân Hồi giáo xâm lăng và bành trướng tôn giáo đến tận các quốc gia trong vùng Tiểu Á. Sau khi đế quốc xâm lược Anh rút ra khỏi vùng này, năm 1947 Ấn Độ được độc lập, và nước Pakistan ra đời (c̣n gọi là: Tây Hồi, tức một quốc gia Hồi giáo , thuộc miền Tây Ấn Độ). Mặc dù cùng một nguồn gốc , chủng tộc, nhưng chỉ v́ khác tín ngưỡng, hai nước Ấn Độ và Pakistan đă lăn xả vào những cuộc tàn sát lẫn nhau vô cùng kinh khiếp. Không kể những vụ chém giết lẻ tẻ diễn ra gần như thường xuyên giữa tín đồ Ấn giáo và Hồi giáo, lịch sử chiến tranh tôn giáo của nhân loại c̣n ghi đă có 3 cuộc chiến lớn lao nhất: lần đầu diễn ra trong ṿng 2 năm 1947-1948, lần thứ nh́ xảy ra trong năm 1965, và lần thứ ba, bùng nổ năm 1971. Trong thập niên 19 cho đến nay, hai nước Ấn Độ và Pakistan vẫn c̣n lai rai giết nhau v́ sự tranh chấp giữa tín đồ hai tôn giáo trong vùng Cachemir, chẳng khác nào như sự bắn giết lẫn nhau giữa hai khuynh hướng Tin Lành và TCG ở Bắc Ái Nhĩ Lan , trong suốt mấy thập niên qua.
Ở Trung Đông , ta phải kể đến cuộc chiến tranh mang đậm màu sắc tôn giáo giữa hai nước Ả Rập láng giềng: Irak và Iran, đă diễn ra ṛng ră suốt 8 năm trời (1980-1988), khiến cho mỗi bên bị thiệt hại đến hơn một triệu nhân mạng. Bề ngoài, cuộc chiến này bộc phát bởi lư do chủ quyền vùng Chatt-al-Arab; nhưng thực chất là sự xung đột sâu xa giữa hai hệ phái Sunnites và Chiites, cùng thờ giáo chủ Mahomet.
Như trên, bạn đă thấy các cuộc bắn giết lẫn nhau giữa các hệ phái tôn giáo Thiên Chúa -Tin Lành, Sunnites- Chiites (Hồi Giáo), Hồi giáo và Ấn giáo, bây giờ tôi xin nhắc để bạn nhớ thêm đến cuộc chiến đẫm máu kinh hoàng gần đây giữa Chính Thống Giáo với Hồi giáo và TCG trong các nước Đông Âu. Đáng kể nhất là sự bắn giết bạo tàn giữa hai chủng tộc cùng một nguồn gốc văn hóa, cùng nói chung một ngôn ngữ trong liên bang Nam Tư Lạp Phu (Yougoslavie) là Croates theo TCG và Serbes theo Chính Thống giáo. Cuộc chiến Sarajevo! Kế đến là dân Serbs theo Chính Thống giáo tàn sát dân Hồi giáo gốc Bảo Gia Lợi ở Kosovo...
 
Dù sao tất cả những cuộc chiến tôn giáo ấy đều đă qua (tuy chỉ tạm thời) nay chỉ c̣n để lại những vết tích bom đạn trong những thành phố hoang tàn, với những nghĩa địa mênh mông chôn những người vô tội, nhưng nếu có tội lại chính là cái tội có tín ngưỡng, có tôn giáoø. Thực là mỉa mai , cay đắng vô cùng !
 ¤
 
 
VIII.- CHIẾN TRANH DO THÁI-Ả RẬP
 
 
Nhưng, hiện nay, ai cũng thấy thảm họa chiến tranh tôn giáo đáng sợ nhất chính là cuộc chiến âm ỉ, dai dẳng giữa Do Thái và Palestine. Bề ngoài che đậy bằng cái nhăn hiệu xung đột chính trị, cướp đất cắm dùi, nhưng thực chất là mối hận thù tôn giáo truyền kiếp giữa hai đạo Du Già- Do Thái và đạo Hồi.
Để bạn đọc nắm vững nguồn gốc sâu xa và diễn tiến cuộc chiến đẫm máu, tràn ngập hận thù truyền kiếp giữa 2 chủng tộc Do Thái và Palestine đang sống trên cùng một lănh thổ, tôi xin tóm lược thật vắn tắt những điểm chính sau đây:
Khi đệ nhị thế chiến đă chấm dứt, tù nhân Do Thái sống sót trong các trại giam Đức Quốc Xă được thả ra, liền vận động phong trào trở về đất hứa Jérusalem, sau 2000 năm bị mất nước phải sống lang thang khắp nơi.
Ngày 10.9.1946, cuộc họp đầu tiên về Palestine gồm đại diện các nước Ả Rập, Do Thái và Anh Quốc.
Ngày 18.7.47, chiếc tàu Exodus chở 4554 người Do Thái, phần đông là trẻ con, trên đường tới Palestine, bị hải quân Anh khám xét, và bị đưa vào hải phận Pháp.
Ngày 1.9.47, Hội Đồng LHQ đề nghị chia đôi lănh thổ Palestine cho Do Thái về định cư. các quốc gia Ả Rập phản đối. Ngày 8.9.47, những di dân Do Thái đầu tiên trên chuyến tàu Exodus đặt chân xuống hải cảng Hambourg của Đức. Ngày 26.9.47, trước LHQ, Anh Quốc tuyên bố sẽ rút hết quân chiếm đóng ra khỏi Palestine.
Ngày 11.10.47, trước LHQ, Hoa Kỳ tuyên bố tán đồng giải pháp chia đôi Palestine cho Do Thái. Nga lên tiếng hưởng ứng.
Ngày 27.11.47, Hội Đồng LHQ biểu quyết về vụ chia đôi lănh thổ Palestine, cho Do Thái về đó lập quốc. 33 phiếu thuận (trong số có Mỹ, Nga, và Pháp), 13 phiếu chống, 10 phiếu trắng (trong đó có Anh quốc). Ngày 15.5.48, Hoa Kỳ công bố thừa nhận quốc gia Israel của Do Thái. Trong khi đó các đơn vị quân sự của Ai Cập đă được chuyển ngầm vào Palestine.
Ngày 17.5.48 Hoa Kỳ yêu cầu Hội Đồng Bảo An LHQ (ONU) ra lịnh cho các nước Ả Rập chấm dứt chiến tranh với Do Thái. Nga lên tiếng thừa nhận quốc gia Israel. Ngày 11.5.49, LHQ biểu quyết thừa nhận tư cách hội viên của Israel. Ngày 23.8.1951, Hoa Kỳ kỳ hiệp ước thân hữu với Do Thái. Ngày 12.2.53, Nga đoạn giao với Do Thái. Nhưng không lâu sau khi Staline qua đời (5.3.53), Nga và Do Thái lại tiếp tục bang giao (20.7.53)...
Từ đó Do Thái thắng thế xông lên, tiến hành mạnh mẽ chính sách bành trướng lănh thổ, chiếm đất cắm dùi, tiêu diệt lần hồi dân tộc Palestine. Hàng triệu người Palestine bị áp bức, cưỡng bách phải chạy đi tị nạn ở các nước láng giềng: Jordanie, Liban và Syrie...

Nh́n lại cuộc đấu tranh chính trị với Do Thái trước LHQ, năm 1947, ta thấy khối Ả Rập Hồi giáo ở Trung Đông đă tỏ ra quá cứng rắn, chỉ biết đ̣i trọn vẹn chủ quyền lănh thổ của Palestine, không chịu thỏa hiệp, không chấp nhận Do Thái, mà bỏ sót mất điểm pháp lư then chốt là: đ̣i hỏi Hội Đồng Liên Hiệp Quốc phải đồng thời thừa nhận một quốc gia Palestine với ranh giới phân chia rơ rệt, trước khi biểu quyết cho Do Thái lập quốc trong vùng đất này.
Sau khi LHQ đă biểu quyết, với sự yểm trợ mạnh mẽ của Mỹ và Nga, chấp thuận cho Do Thái được thành lập quốc gia Israel trong lănh thổ Palestine, và dân Palestine bị đàn áp dă man, các nước Ả Rập mới nhận ra sự sơ xuất trong chiến lược chính trị, tạo nên thất bại đau thương cho dân tộc Palestine, nên chỉ c̣n cách phản kháng tiêu cực và tuyệt vọng bằng vơ lực.
Các nước Ả Rập, đứng đầu là Ai Cập, do tổng thống Nasser lănh đạo đă tập trung lực lượng quân sự ở sa mạc Sinai, để nhắm tấn công Do Thái. Vào tảng sáng ngày 5.6.1967, giữa lúc quân đội Ai Cập đang lo tiếp tế xăng dầu cho các đơn vị tham chiến, liền bị các chiến đấu oanh tạc cơ Do Thái bất thần xuất hiện đánh bom tiêu diệt một lúc 250 phi cơ của Ai Cập. Những ngày sau, ngày 6 và 7. 6. 1967, các chiến xa Do Thái tiến sâu vào vùng Sinai. Ngày hôm sau, 8.6.1967, toàn vùng Sinai nằm gọn trong tay quân Do Thái. Từ ngày 10 đến 11.6.1967, quân Do Thái chiếm đỉnh đồi Golan của Syrie, là một điểm chiến lược cực kỳ quan trọng đối với sự sống c̣n của Do Thái. Đó là cuộc chiến 6 ngày (guerre des Six Jours).
Ngày 16.10. 1973, ngày lễ Yom Kippour của Do Thái, liên quân Ai Cập và Syrie phản công. Ai Cập xua quân vượt qua kinh đào Suez. Syrie xua quân đánh vào Golan. Nhưng kết quả Do Thái vẫn thắng trận.
Ngày 26.3.1979, tại Hoa Thịnh Đốn, Ai Cập đă phải kư ḥa ước với Do Thái. Ngày 27.3.1979, để phản đối, 18 quốc gia Ả Rập đă nhóm họp ở Bagdad (Irak) quyết định phong tỏa kinh tế Ai Cập.
Đến tháng 6.1982, để đối phó với những cuộc tấn công bằng hỏa tiễn của Palestine (O.L.P.) vào những khu di dân Do Thái ở phía Bắc Galilée, quân Do Thái đánh chiếm miền Nam Liban, và chỉ trong ṿng 5 ngày đă tiến tới sát ngoại ô thủ đô Beyrouth. Đó là chiến dịch Ḥa b́nh ở Galileé (Paix en Galilée).
Những cuộc chiến chung quanh Beyrouth đă diễn ra thảm khốc , và quân Do Thái, dưới sự điều động của viên tướng khát máu Ariel Sharon, đă thẳng tay tàn sát quần chúng, thường dân vô tội trong vùng này, bất kể đàn bà trẻ con. Vụ này hiện đang được ṭa án chiến tranh ở Bỉ thiết lập hồ sơ để truy tố Ariel Sharon về tội phạm chiến tranh và hành động diệt chủng.
Ngoài Ai Cập, các nước Ả Rập đă thành lập mặt trận chung, thực hiện chiến thuật kháng chiến trong thành phố chống Do Thái, gọi là chiến dịch Intifada, có nghĩa cuộc chiến ném đá trong vùng đất bị Do Thái chiếm đóng.
Đến năm 1993, Do Thái thừa nhận tổ chức Giải Phóng Palestine OLP (Organisation de Libération de la Palestine) như một đối tác thẩm quyền. Giải Nobel Ḥa b́nh đă được trao cho Peres, Rabin và Arafat. Một quốc gia tự trị Palestine được thành lập trên phía Tây ngạn sông Jordan, gồm Jéricho và dải đất Gaza. Nhưng, những phần tử cực đoan, đặc biệt là giới đạo sĩ Rabbins Do Thái và phe cuồng tín Hồi giáo, vẫn giữ thế chủ động. Miền Nam Liban vẫn c̣n bị quân Do Thái chiếm đóng. Chính phủ Syrie thất bại trong việc điều đ́nh đ̣i lại đồi Golan, v́ Do Thái cho rằng ngọn đồi này có giá trị chiến lược, bảo đảm an toàn biên giới cho Do Thái.
Kể từ thỏa hiệp Jéricho-Gaza, phong trào Intifada vẫn tiếp tục sôi động. Phong trào Hamas của Hồi giáo ra đời, đẩy cuộc chiến tranh tôn giáo giữa Do Thái và Hồi giáo tới mức càng trầm trọng thêm. Đảng bảo thủ Likoud của Do Thái trở nên sắt máu hơn. Thủ tương Rabin, người chủ trương ôn ḥa, đă tiếp xúc thân mật với Arafat bị phe cực đoan hiếu chiến ám sát chết. Lănh tụ đảng lao động ôn ḥa Simon Peres bị thất cử thủ tướng...Nhờ đó, Ariel Sharon, viên cựu tướng già khát máu, đă có cơ hội lên nắm chính quyền, được George W Bush công khai mạnh mẽ ủng hộ, lại tiếp tục chính sách bành trướng, xua dân và quân Do Thái đánh chiếm sâu vào lănh thổ của Palestine, đốt phá, ủi sập nhà cửa của Palestine, dùng bom và hỏa tiễn tấn công vào những khu đông dân Palestine cư ngụ, tạo nên những cuộc kháng chiến tự sát kiểu kamikazé của Nhật thời đệ nhị thế chiến, gọi là thánh chiến (Djihad).
 
Trước ngày 11. 9. 2001, mặc dù chính phủ George W Bush, chung quanh đă bao vây đầy Do Thái, đáng kể nhất có phó TT Dick Cheney và thứ trưởng Quốc Pḥng Paul Wolfowitz..., mà b́nh luận gia Jean Daniel của tạp chí Observateur đă gọi là: les États - Unis enjuvés(Hiệp Chủng Quốc Mỹ  bị Do Thái hóa!), (nr. 2005, 10-16. 4. 2003, trg 21) và mối hận thù giữa Do Thái- Hoa Kỳ với các quốc gia Ả Rập nói riêng, thế giới Hồi giáo nói chung, đă trở nên sâu đậm lắm rồi, song Mỹ vẫn chưa ra mặt trực tiếp đối đầu với quân Hồi giáo. Nhưng kể từ khi quân cảm tử Hồi Giáo đánh sập ngôi nhà World Trade Center ở New York, chẳng khác nào một cái tát bất ngờ vào mặt người Mỹ, t́nh thế thay đổi hẳn. Lập tức tổng thống George W Bush xua quân đánh chiếm A Phú Hăn (Afghanistan), tiêu diệt lực lượng Taliban Hồi giáo ở đó để trả đũa, đồng thời truy nă Oussama Ben Laden, tay đầu sỏ chủ mưu vụ đánh bom ngày 11. 9. 2001.
Sau khi t́nh h́nh A Phú Hăn vừa tạm yên, tổng thống Bush quay sang hăm he luôn 3 nước, bị Bush liệt vào loại quốc gia côn đồ(État voyou, État terroriste): Irak, Iran và Bắc Hàn...Nhưng Irak là con mồi ngon nhất, và Sadam Hussein là kẻ thù nguy hiểm nhất. Bởi v́ trong quá khứ, Sadam Hussein đă từng vi phạm nhiều sai lầm quan trọng. Trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh, Sadam Hussein đă phóng hỏa tiễn vào lănh thổ Do Thái, rồi lại c̣n công khai hoan hô cổ vơ hành động khủng bố của nhóm Ben Laden...Những sai lầm ấy rất dễ cho Bush tạo cớ đánh chiếm Irak. V́ thế, TT Bush đă bất cần đến quyết định của Hội Đồng Bảo An LHQ, gạt bỏ luôn cả lời kêu gọi ḥa b́nh của giáo hoàng Jean-Paul II, không đếm xỉa đến dư luận quần chúng thế giới phẫn nộ, cứ dội như mưa các loại bom tối tân, hạng nặng, ngày đêm không ngừng nghỉ, xuống thủ đô Bagdad. Theo tạp chí Observateur: Để lật đổ mau chóng chế độ (Sadam Hussein), ngay từ đầu cuộc chiến các lực lượng Mỹ đă hành động tàn bạo chưa từng thấy ở Bagdad. Giội bom liên tục không ngừng nghỉ, chiến xa xung kích bừa băi, bộ binh xả súng bắn bất kỳ những thứ ǵ nhúc nhích....(Pour hâter la chute du régime, les troupes américaines ont mis en oeuvre dans Bagdad une violence inconnue depuis le début de la guerre. Bombardements incessants, chars-dassaut déchainés, infanterie tirant sur tout ce qui bouge...), (nr. 2005, 10-16. 4. 2003, trg 24, La bataille de Bagdad).
Theo dư luận báo chí thế giới, cuộc chiến Irak chỉ là bước mở đầu tham vọng bành trướng của Mỹ ở Trung Đông, nhắm chiếm toàn bộ các nguồn nhiên liệu dầu hỏa phong phú nhất trên thế giới, khống chế các nước láng giềng: Iran, Jordan, Syrie, Libanon...để bảo đảm an ninh cho Do Thái. Cùng chia xẻ nhận xét này c̣n có Jean-Fancois Revel Hàn Lâm viện Sĩ Pháp. Ông viết nguyên văn:...les causes de cette guerre: ce sont les intérêts pétroliers de Bush et de son administration. Le pétrole!( những nguyên nhân của cuộc chiến tranh này: là những nguồn lợi dầu hỏa của Bush và chính phủ của ông ta. Dầu hỏa!) (Le Point, nr.1596, 18.4.03, trg 21).
Khi tôi đang viết những ḍng này, cuộc chiến ở Irak c̣n chưa tan khói thuốc súng, Bush lại đă tiếp tục lên tiếng gay gắt đe dọa sẽ tấn công Syrie, một quốc gia Hồi giáo Ả Rập quan trọng khác trong vùng Trung Đông, với lư do nước này đă sản xuất loại vơ khí giết người hàng loạt (sic), và chứa chấp các nhân vật cao cấp Irak v.v...
Kết luận, v́ hận thù tôn giáo (giữa đạo Du Già và Hồi Giáo), và xung đột chủng tộc (giữa Do Thái và Ả Rập) có tính cách truyền kiếp, và lâu dài hàng mấy ngàn năm nay, bây giờ nền ḥa b́nh thế giới, đặc biệt vùng Trung Đông, đang bị đe dọa nặng nề hơn bao giờ hết. Trong khi đó, các luật lệ quốc tế đă bị biến thành một đống giấy lộn. Khối Nato và cộng đồng Âu Châu (EU) bị chia rẽ trầm trọng. Trong con mắt của các đại cường quốc: Mỹ, Nga, Tàu..., cơ quan Liên Hiệp Quốc chỉ là ông b́nh vôi dành để trang trí!
[ DẪN CHỨNG: Năm 1959, Trung Cộng ngang nhiên xua quân xâm lăng Tây Tạng, trước con mắt bất lực của LHQ. Cuối thập niên 90, Nga đem quân đánh chiếm Tchétchénie, không thèm đếm xỉa ǵ đến sự phản đối của LHQ. Bây giờ, đến lượt Mỹ (mệnh danh sen đầm thế giới) đánh chiếm Irak, bất chấp quyết nghị của Hội Đồng Bảo An LHQ!...
   Trước những hành động loạn pháp nghiêm trọng, cá lớn tha hồ nuốt cá bé khắp nơi trên thế giới đă xảy ra. Là người VN, tôi không khỏi lo ngại cho số phận nhược tiểu của đất nước tôi. Trong tương lai, một ngày nào đó, bỗng nhiên TC tạo cớ, xua quân xâm lăng nước tôi, tàn sát dân tộc tôi, như đă xâm lăng Tây Tạng. Lúc đó chúng tôi, cũng như các tiểu nhược quốc khác trên thế giới, biết trông cậy vào công lư nào ?!].
Như thế, hiểm họa chiến tranh tôn giáo, do những kẻ cuồng đạo, hiếu sát, hiếu chiến (c̣n gọi là diều hâu) chủ trương, để thực hiện khát vọng ngông cuồng làm vua khắp cơi thế gian theo thánh kinh, từ nay sẽ không c̣n e ngại gặp phải một trở ngại đáng kể nào nữa!
  Tuy nhiên, dù sao tôi vẫn cố đặt hết niềm tin nơi bẩm chất tánh bản thiện của đại đa số nhân loại yêu cuộc sống ḥa b́nh, công bằng và nhân ái của đức Phật từ bi. Tất cả niềm tin ấy tôi gói ghém trong quyển sách nhỏ bé, khiêm nhượng này. Hy vọng ngày tận thế , hay ngày Yahweh của Do Thái giáng trần xử tội bọn Goyim mà đạo Du Già-Thiên Chúa đă tiên liệu trong thánh kinh, và nhóm diều hâu Do Thái đang tận lực thúc đẩy, vận động hăy c̣n xa, hay không bao giờ xảy ra được !
 
Nơi đây, để kết thúc chương viết về chiến tranh tôn giáo với thảm họa kinh hoàng của nó, tôi xin mượn lời của Pierre Miquel , thạc sĩ sử học, giáo sư đại học Sorbonne, (Paris), tác giả các danh phẩm nghiên cứu sử học giá trị như: Les Guerres de Religion, Histoire de la France, la Grande Guerre et la Seconde Guerre Mondiale...Ông nhận xét về thảm họa chiến tranh như sau: Chiến tranh tôn giáo không phải là nội chiến, như cuộc chiến của phe Armagnacs với phe Bourguignons (*).Chiến tranh tôn giáo rất khắc nghiệt, nó làm cho con người chống con người. Mục đích của nó không phải để đàn áp đối phương, mà là để tiêu diệt, làm cho đối thủ tan biến thành tro bụi, như các vị quan ṭa dị giáo! (La guerre des Religions nest pas une guerre civile, comme celle des Armagnacs et des Bourguignons. Elle est inexorable, elle dresse lhomme contre lhomme. Elle na pas pour but de dominer ladversaire, mais de le détruire, de le réduire - comme le font les inquisiteurs - en cendres!).(Les guerres de religions, trg 22).
 
* Ghi chú thêm của ĐVN: Armagnacs là đảng bênh vực quyền lợi của người Orléans chống lại người Bourguignons trong cuộc chiến 100 năm, dưới thời Charles VI, Isabeau de Bavière và Charles VII. Tên Armagnacs được đặt theo tên họ của Bernard VII dArmagnacs, bố vợ Charles I dOrléans, người lănh đạo nhóm Armagnac sau khi phe đảng Jeans Sans Peur ám sát Louis I dOrléans, cha dẻ của con rể ông, năm 1407. Sự ḱnh địch này biến thành nội chiến. Kết quả quân Anh đánh thắng phe Armagnacs ở Azincourt (1415). Bernard VII dArmagnac và Jean Sans Peur lần lượt bị ám sát, người thứ nhất bởi dân Paris (1418), người thứ nh́ do Duchâtel , một trong các thủ lănh Armagnac (1419). Hiệp ước Arras (1435) giữa Charles VII và Philippe le Bon chấm dứt chiến tranh giữa đảng Armagnac và Bourgogne (Bourguignon). Nhưng những toán vơ trang vẫn c̣n tiếp tục cướp phá thêm mấy năm nữa mới tàn lụi hẳn!...