Cùng một cảm giác khó chịu v́ bị ông trời âm thầm theo dơi, ḍ la trong bóng tối
như thế, nhà văn Serge Gainsbourg đă ví ḿnh chẳng khác nào một tay nghiện hút
x́ gà Havana cuả Cuba, trong thời kỳ phong trào bài xích thuốc lá đang lên cao
độ, và những tay nghiện hút đă bị đàn áp, cấm đoán khắp nơi, khiến nhiều khi đă
phải chui cả vào cầu tiêu để thả hồn theo mây khói mà vẫn chưa được yên thân.
Tóm lại, sự hiện hữu của ông trời, có thật hay không, đă là một nỗi ưu tư của
con người. Bây giờ bàn đến vấn đề ông trời ở đâu càng khiến cho tư tưởng của con
người thêm hoang mang, rối loạn.
Dù vậy, một cách đơn giản, tôi vẫn có thể chỉ cho bạn biết ngay chỗ ông trời ở.
Trước hết ông trời ở ngay trong đầu của bạn. Nếu bạn vẫn chưa đủ khả năng để t́m
thấy ông ta nơi đó, bạn có thể t́m ra ông ấy ở một chỗ khác: Trong kinh sách của
các tôn giáo.
Nhưng, thiết tưởng bạn nên biết trước điều vô cùng quan trọng này: Theo các tôn
giáo thờ đa thần, như :Vật Linh, Bà La Môn, Ấn Giáo ...có rất nhiều loại ông
trời, đủ kiểu, đủ dạng, đủ mọi tâm tánh, thiện, ác khác nhau. Chẳng ông nào
giống ông nào. Một ḍng sông, một tảng đá cũng tiềm ẩn một ông trời! Nhưng ngược
lại, các tôn giáo thờ độc thần, như: Du già, Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo...mỗi đạo
chỉ có một ông trời, rất xung khắc với nhau như nước với lửa, thường lôi cuốn
tín đồ của các ông ấy vào con đường tàn sát lẫn nhau, để chiếm ngôi bá chủ hoàn
cầu!
Tuy nhiên, bây giờ nếu các bạn muốn có một khái niệm căn bản về những ông trời
của các loại tôn giáo ấy, th́ đây, xin mời các bạn hăy chịu khó đọc tiếp những
chương sau, trong quyển sách này.
LỊCH SỬ ÔNG TRỜI
Theo thiển kiến của tôi, măi cho đến cuối đệ nhất thiên niên kỷ này, lịch sử ông
trời mới hoàn chỉnh. Hiển nhiên, sau đó vẫn c̣n nhiều nhà thần học danh tiếng tiếp
tục nghiên cứu. Nhưng tôi nhận thấy dường như họ chỉ đào sâu thêm trực cảm đă
thu thập được từ những người đi trước. Trong giới TCG , thánh Thomas dAquin, khi
soạn sách tóm tắt thần học (Somme Théologique), vào thế kỷ XIII, đă chỉ làm công
việc Ki Tô hoá (christianisé) vĩnh viễn Aristote, mà trước đó một thế kỷ, ở
Andalousie và ở Iran, các triết gia Hồi giáo như Avicenne và Averroès đă Hồi
giáo hoá (islamisé) rồi.
Trong giới Chính Thống Giáo, nhà thần học Byzantin, tên Grégoire Palamas đă hệ
thống hoá những suy tư của các cha cố Hy Lạp vào thế kỷ XIV.(Thuyết thần học của
Palamas, sau này đă được nhà thần học Nga Sô, Vladimir Lossky, nhắc lại; và đại
văn hào Dostoievski cố gắng tŕnh bày tư duy của ông, đem niềm tin ra đương đầu
với thuyết hư vô (nihilisme) tân tiến của chế độ cực quyền (totalitarisme) trong
các tác phẩm Les Frères Karamazov và LIdiot).
Trong khi đó các nhà cải cách Tin Lành giáo (protestantisme) của thế kỷ XVI, ở
Đức, Pháp và Thụy Sĩ, như: Luther, Calvin,và Zwingle đă bác bỏ bằng bạo lực, một
cách chính đáng, những sai lầm quyền lực của toà thánh và giáo hoàng. Những mâu
thuẫn về tư tưởng của Tin Lành giáo, nhờ nhà thần học lừng danh Karl Barth, măi
đến năm 1940 mới vượt qua được, và giáo điều mới hoàn toàn điều chỉnh lại trên
căn bản tự do.
Hầu như trong tất cả mọi tôn giáo đều có những nhà trí thức quan tâm thực sự đến
huyền học như : Jean de la Croix (Thiên Chúa giáo), Spinoza (Do Thái), vào thế
kỷ XX, và Rabindranath Tagore (Ấn Độ Giáo), người đă đoạt giải Nobel năm 1913.
Nhưng theo tôi, các chuyển động vô hạn ấy vẫn không đem đến được một điều ǵ mới
mẻ cho lịch sử của ông trời.
ÔNG TRỜI BA NGÔI ?
Sau khi đọc qua một số kinh điển, nghe bàn về ông trời, ta có thể tóm lược: Ông
trời luôn ở chung quanh ta , như chủ nghĩa nhân văn Hy Lạp đă linh cảm thấy ông
trời, qua h́nh tượng các vị thần linh với những gía trị toàn năng. Đối với các
tín đồ TCG, ông trời là một người bạn, hiện thân qua Jésus Christ.
Ông trời cũng c̣n ở trong con người, theo khái niệm của Phật Giáo và các nhà
hiền triết Ấn Độ. Về phần các đạo Du Ǵa và Thiên Chúa, dường như ông trời đă
được minh xác xuyên qua câu của thánh Augustin : Thượng đế đối với ta mật thiết
c̣n hơn cả sự mật thiết của riêng ta.
Cuối cùng, ông trời c̣n được coi như ở trên con người, như một ông thầy, một
người cha. Điều này tín đồ Hồi giáo có khái niệm rất rơ.
Những người theo tín ngưỡng độc thần giáo, như Du Già giáo và Ki Tô giáo, hoặc
dự đoán hoặc xác quyết cho rằng ông trời là một nhân vật nào đó, và ông trời là
t́nh yêu.
Trong khi đó, từ khởi nguyên, những người theo thuyết Vật Linh lại cho rằng ông
trời là linh hồn của thế giới.
Bằng mọi sự, trong nội tại, ông trời hoàn toàn siêu việt, trên hết mọi vật. Đối
với chúa Jésus, ông trời biểu lộ t́nh hữu nghị, thân ái.
Trong khoảng những thế kỷ đầu tiên của công nguyên này, (431 và 451) các nhà
thần học, ở Éphèse và Chalcédoine, đă khai sáng ra giáo điều ba ngôi cùng một
thể (le dogme de la Trinité) trong một bối cảnh (contexte) tư tưởng của nền văn
hoá Hy Lạp. Ngụ ư muốn nói: Không nên đóng khung ông trời vào trong một khuôn
khổ kích thước độc nhất, làm cho tín ngưỡng qui ẩn vào nội tại, trốn lánh thế
giới bên ngoài.
Trong phạm vi tư tưởng này, theo thiển kiến của tôi, một số nguyên nhân đă gây
nên sự nghèo đói hiện nay của nước Ấn Độ đều do tinh thần lẩn trốn vào nội tâm,
núp trong nội tại, cùng với sự lạm dụng bừa băi tôn giáo, khiến người dân Ấn đă
mất phần nào khả năng cải tiến thực trạng.
[ Điểm này rất giống tâm trạng của đa số người VN ngày nay, ở hải ngoại. Họ
không có tŕnh độ kiến thức, không đủ ngôn ngữ, để hội nhập vào xă hội Âu-Mỹ.
Trước người bản xứ, họ có mặc cảm tự ti, sợ hăi, thu thúc nội tâm, trốn vào nội
tại, lúc nào cũng thụt vào trong cái vỏ như con ốc sên. Nên suốt 27 năm qua họ
đă phải nương tựa vào tín ngưỡng, năng đến nhà thờ, chui rúc vào các chùa chiền,
mọc ra như nấm ở mọi nơi, để cầu t́m những giây phút b́nh an cho tâm hồn đầy
hoang mang, lạc lơng, lo ngại, hăi hùng bâng quơ trước một khung cảnh đất nước
xa lạ, một nền văn hoá hoàn toàn khác biệt, một thứ ngôn ngữ không thông suốt,
với một tương lai đầy bất trắc...Do đó họ đă mặc nhiên trở thành những kẻ mộ
đạo, mặc dù họ chẳng biết đạo lư, giáo điều, hay kinh kệ là ǵ! Bởi thế , họ đă
trở thành những con mồi béo bở cho bọn giặc thầy chùa giả dạng tu hành nhan nhản
khắp nơi hải ngoại.Đáng thương thay!]
Viết đến đây, tôi chợt nhớ đến tác phẩm LAsie des grands chemins của một nhà du
lịch độc đáo ở Ấn Độ, tên Jack Thieuloy. Trong sách ông đă ghi nhận tinh thần
tín ngưỡng của dân Ấn Độ bằng một câu ngắn gọn, nhưng đă nói lên vố số t́nh tiết
khiến người đọc phải suy nghĩ: Khi ta sống ở Puri, ta thoát khỏi những câu thúc
của thực tế.
Vâng, nếu chỉ đọc câu ngắn ngủi trên đây, chắc chắn bạn sẽ chẳng hiểu ǵ. Nhưng,
nếu bạn đă có dịp đến tham quan thành phố Dekkan, là một trong vô số thánh địa
của xứ Ấn, bạn sẽ thấy các đền thờ nơi đây dường như đă nuốt chửng hết mọi vật.
Ngôi đền Jagannath, trên chỏm có gắn bánh xe của thần Vishnou, đă là nơi tập họp
đến 6 ngàn thầy tu và nuôi sống đến 20 ngàn người. Thành phố Puri là một rừng
đền đài, các kiểu kiến trúc rất kỳ cục. Trong số có cả những đền thờ dương vật
cương cứng (phalliques), dựng thẳng đứng lên trời như một cây cột thăng thiên,
hay những đền thờ tượng âm vật của nữ giới, rất lộng lẫy huy hoàng, như một
Muktewsar, dựng trên cái đinh ba của thần Shiva, và trang trí thêm bằng những
h́nh tượng dâm dục.
Trong các quốc gia Hồi giáo, chúng ta không phải chứng kiến những h́nh ảnh quá
độ của tín ngưỡng đa thần (polythéisme) hay c̣n gọi là tà đạo (paien, hay
paganisme), theo quan điểm của TCG thời trung cổ; nhưng chúng ta lại bị rơi vào
cái ách của chủ thuyết siêu việt cực kỳ nghiệt ngă. Đấng Allah cuả Hồi giáo là
một nhân vật siêu ngă quá đáng!
Lục điạ Ấn ngày xưa đă từng là điạ điểm đối chọi đẫm máu, kinh hoàng, giữa hai
tôn giáo, mà chủ thuyết vốn xung khắc với nhau như nước với lửa. Đó là: độc thần
giáo cực kỳ tuyệt đối với đa thần giáo thờ tạp nhạp đủ loại thú vật. Tức là giữa
tín ngưỡng Hồi giáo của dân Pakistan và tín ngưỡng Hindou của dân Ấn Độ.
Trong chỗ thâm sâu, kín đáo nhất của ḷng tôi, vốn nằm im, bất động một tư tưởng
chống giáo quyền (anticlérical). Hay nói cách khác cho giản dị và dễ hiểu hơn,
tôi vốn dễ bị dị ứng đối với những kẻ tu hành, bất kỳ tôn giáo nào. Bởi thế, khi
nghiên cứu về tôn giáo tôi có cảm nghĩ hơi khác thường: Dường như ông trời Hồi
Giáo Allah đă nhiễm đậm chủ thuyết Freud. Ông ta đă được đệ tử thổi phồng thành
một thứ Siêu Ngă (Sur-Moi) rất hiếu thắng và ham áp đảo. Đối với ông Thích Ca
hiền từ, rất duy vật, và ông Jésus can trường, nhân ái, tôi có nhiều cảm t́nh
hơn. Tôi nh́n hai vị này như những nhà cách mạng xă hội, những bậc thầy, những
người thân...
Chúng ta nên biết tín ngưỡng nào cũng cần phải hội đủ 3 yếu tố căn bản ( hay coi
như 3 ngôi cũng không sao!) gồm: tâm linh, tính siêu việt, và ḷng bác ái. Trong
đời sống tôn giáo, nếu thiếu mất một trong ba yếu tố căn bản đó, bất kỳ ông trời
nào - kể cả Chúa, Phật, hay Allah cũng vậy! - tất sẽ biến thành một thứ thần
tượng khát máu nhân loại chẳng khác nào như ông trời của dân Aztèques hay dân
Assyrie mà thôi!
Lịch sử về ông trời, đặc tính của ông trời, chúng ta không t́m đâu được, không
hỏi ai được, ngay cả những kẻ tu hành. Chúng ta cần phải đọc thật nhiều, phải tự
suy nghĩ và t́m hiểu lấy, để tránh khỏi những sai lầm mù quáng. C̣n về tôn giáo,
ta phải biết, nó có thể đưa đẩy ta vào nhiều con đường khác nhau, lên, xuống,
trái, phải, hay, dở...Trong đó, có con đường đạt ngộ, lẫn lộn với nhiều con
đường khác. Nếu không khôn ngoan sáng suốt, ta sẽ lạc lối thay v́ đến đích mong
muốn. Ngay chính những kẻ tu hành cũng chẳng mấy ai biết ǵ nhiều về ông trời
của họ, và nhất là cũng không biết được con đường nào là đạt ngộ trước mắt họ
đâu. Thản hoặc, nếu có một người tu hành chân chính hiếm hoi nào đă may mắn nh́n
thấy cái móng chân út cuả ông Phật (hay Chúa), th́ người đó vội cho rằng đă thấy
Phật (hay Chúa)!
Vậy, nếu ta tin nơi họ, và nghe lời họ, chẳng khác nào ta kêu một thằng mù dẫn
đường, chắc chắn có ngày sẽ xuống hố cả lũ. Bằng cớ hiển nhiên nhiều kẻ tu hành,
từ thời Trung Cổ cho đến nay, đă nhân danh ông trời của họ, chúa Jésus, Jéhova,
hay Allah..., để đẩy con người vào những cuộc tàn sát lẫn nhau hết sức dă man.
HAI ÔNG TRỜI
Bởi thế, đến khoảng thế kỷ thứ III sau TC, một nhà tiên tri người Ba Tư (Iran),
tên Mani đă xướng xuấ½t lên một giải pháp, mà ông ta tin tưởng rất tốt đẹp, cho
rằng: Trên thế gian chỉ có hai ông trời ! Một ông trời của từ thiện, của ánh
sáng, và của những ư tưởng thanh khiết (không liên quan ǵ đến thuyết của Platon
và Lăo Tử đâu nhé!), cùng với một ông trời khác của sự độc ác. Dựa trên giáo
thuyết này, đấng tiên tri Mani trở thành giáo chủ khai sáng đạo Manès, gọi là
đạo Thiện-Ác, chủ trương có sự đối lập tuyệt đối giữa cái Thiện và cái Ác. Đấng
tiên tri Mani cho rằng vũ trụ này chỉ là một tác phẩm của một ông trời độc ác
(dieu du mal). Tất cả những độc ác kinh hoàng cuả đời sống và cuả vũ trụ đều do
một tác giả biên soạn, tạo nên. Tất nhiên, từ đó mọi sự ác đều không c̣n đối
tượng để so sánh, phân biệt, khiến cho mọi sự ác đều đồng hóa và trở nên không
c̣n ác nữa.
Trong 7 quyển thánh thư do Mani đích thân san định, có một quyển đă được nhiều
người biết đến là quyển Le Livre des Secrets. Trong quyển này, giáo chủ Mani đă
công bố tất cả những bí mật lớn lao ấy. Về sau, đến năm 276, giáo chủ Mani đă bị
Bahram, quốc vương Ba Tư (Perse, tên xưa cuả Iran, trước khi bị Ả Rập chinh
phục) hành h́nh. Ông đă chọn cái chết tử v́ đạo. Ông đă cố gắng tận lực bảo vệ
cho tín ngưỡng của ông, với giáo thuyết Zoroastrisme.
Dĩ nhiên các tín đồ đạo Thiện- Ác (Manès) đều đồng nhất hoá thế giới vật chất là
bất thiện. Từ quan niệm đó, họ tỏ thái độ phản kháng đời sống. Trong tư tưởng
của họ chứa toàn một thứ đạo đức tuyệt đối tiêu cực, phủ nhận cuộc sống, và hận
thù mọi thứ hiện hữu. Đạo Thiện-Ác cho rằng: Chính v́ mọi vật, mọi người đều do
một ông trời bất thiện tạo nên, sản xuất ra, nên đời sống không c̣n vấn đề ǵ
thiện hảo nữa. Như vậy, con người không thể nào trở về được với ông trời Toàn
Thiện ở nơi cao thâm kia, sau khi chết.
Với tư tưởng nguyền rủa mọi thứ trong đời đều bất thiện, nên tín đồ đạo Thiện-Ác
lâm vào ngơ bí, không thể nào t́m ra được một lối thoát thích nghi với cuộc sống
thực tại hằng ngày. Cuối cùng một số đông đảo tín đồ đă phá sự bí lối trong tư
tưởng bằng hành động nổi loạn, trái ngược hẳn với chủ thuyết và giáo điều. Họ
chấp nhận dễ dàng toàn bộ mọi thứ bất thiện trong cuộc sống buông thả tuyệt đối.
Họ cho đó là một cách bộc lộ tư tưởng chống đối cuộc sống vật chất bất thiện
tích cực nhất. Tức là thái độ bất thiết, có tính cách tự hủy hoại, hoàn toàn
liều mạng. Kiểu tục ngữ VN: Lỡ tay trót đă nhúng chàm, dại rồi th́ nhúng cả bàn
cho xanh!
Theo chủ thuyết Manès, mọi việc và mọi vật trong đời đều bất thiện, và cuộc đời
chỉ là một bể khổ, đẫy rẫy bất tịnh. Thay v́ các tín đồ đạo này phải t́m cách
diệt dục và xa lánh cuộc sống bất thiện ấy - như đạo Phật th́ ngược lại, một số
đông đă gieo ḿnh vào các cuộc hoan lạc bẩn thỉu nhất, và theo đuổi những dục
vọng thấp hèn, ô trọc, hơn cả mọi người ngoại đạo. Như vậy, thử hỏi c̣n ǵ là
tôn giáo nữa?!
Do đó đạo Thiện-Ác đă chia ra 2 phái, với 2 loại tín đồ khác nhau: Phái hoàn
hảo, toàn thiện, chối bỏ mọi thứ bất tịnh, theo đúng chủ thuyết. Phái khác, đông
đảo hơn, chẳng giữ ǵn một điều ǵ, buông thả thẳng tay, sẵn sàng chờ đến ngày
thánh lễ an ủi Consolamentum(hay c̣n gọi là: Consolament) cuối cùng, để mặc cho
mọi việc tự xếp đặt đâu vào đấy ngay trên chiếc giường tẩn liệm thi hài.
Bởi thế, về sau, rất nhiều tín đồ đạo Thiện-Ác (Manès) đă bị hành quyết rất dă
man. Nhưng ngọn lửa tinh thần của đạo này, vẫn không v́ thế mà bị tắt ngấm luôn.
Bị đàn áp tàn bạo, một số tín đồ Manès ưu tú nhất, thiện hảo nhất, đă trôi dạt
tới các vùng miền Nam Pháp quốc, sống ẩn dật trong vùng biên giới các nước lân
bang, lập nên giáo phái Cathare thời trung đại, vào thế kỷ thứ XII.
GIÁO PHÁI CATHARES
Danh từ Cathares vốn gốc Hy Lạp, chữ katharos, nghĩa là: tinh khiết và hoàn hảo.
Danh từ này đă dùng làm danh xưng cho một nhóm nam nữ theo đuổi chủ thuyết tán
dương và truy cầu sự tinh khiết tuyệt đối của phong hoá. Trong thời kỳ này tín
đồ Cathares sống ở vùng nào th́ dùng ngay địa danh của vùng ấy mà đặt tên. Thí
dụ như : Albigeois, tức chỉ dân Cathares ở thị trấn Albi, thuộc vùng Languedoc,
Albains là dân cathares thuộc vùng Albe cổ, Concorrezziani là dân Cathares ở
Concorrezzo, thuộc vùng phụ cận Milan, Bulgares chỉ dân dị giáo đến từ Bảo Gia
Lợi.
Trong lúc này, một số tín đồ tôn giáo khác, đối nghịch với chủ thuyết của nhóm
Cathares, đă cố moi móc, t́m ṭi trong từ nguyên học (étymologie) để cắt nghĩa
danh từ Cathares, vốn bắt nguồn từ chữ Cato, chỉ một loại sinh vật bí hiểm, gốc
ma qủi, đă từng hôn đít Cato, đồng nghĩa với câu bọn phù thủy hôn đít qủy Satan!
(les cathares baisent la cul da Cato = les sorciers baisent le cul de Satan!).
Tṛ định nghĩa gỉa dụ này có dụng tâm cực kỳ nham hiểm, nhắm mục đích tuyên
truyền cáo buộc ngầm dân Cathares là bọn phù thủy!
Nên nhớ, thời Trung Cổ, TCG cực thịnh ở Âu Châu, các nhà thông thái như: Thiên
Văn học (astronomes), chiêm tinh học (astrologues), luyện đan, luyện kim
(alchimistes), hay bất cứ một nhà trí thức nào mà nói không đúng những điều đă
ghi trong thánh kinh TCG , như trường hợp các nhà bác học: Galilée và Giordano
Bruno...đều bị coi như phù thủy, bị khép tội tử h́nh với tất cả những cực h́nh
tra tấn dă man cho đến lúc đem đi thiêu sống. Thậm chí, khi Bruno đă bị trói
chặt trên dàn hoả rồi, người ta c̣n sợ ông sẽ hô to lời nói cuối cùng của sự
thật, nên đă phải cắt lưỡi và may kín miệng ông lại !...
Ngay từ khi mới khởi đầu, trong vùng Nam Pháp, giáo thuyết Cathares đă bị TCG kỳ
thị, coi như một thứ dị giáo. Nhưng là một thứ dị giáo có chủ thuyết minh bạch,
giáo thuyết mạch lạc, đầy đủ tính cách thuyết phục, lễ tiết nghiêm trang thanh
khiết, tổ chức chặt chẽ, qui củ, đáp ứng đúng nhu cầu thanh lọc tôn giáo đang
trở nên một đ̣i hỏi có tính cách thời thượng cấp thiết nhất lúc bấy giờ, nên
phái Cathares đă nhanh chóng bành trướng rất mạnh, tạo được ảnh hưởng tinh thần
rất tốt đẹp và sâu đậm ngay trong hàng ngũ các tu sĩ trí thức TCG. Biến cố này
đă khiến cho giới lănh đạo cao cấp TCG lo ngại, phải mau chóng t́m phương pháp
tận diệt bằng vơ lực: Một mặt lập ra toà án dị giáo (Inquisition), đồng thời gấp
rút tổ chức đạo quân Thập Tự Giá (les Croisées) để đàn áp thẳng tay, và tàn sát
không chừa một con đỏ!
Xét cho cùng, chẳng phải vô cớ mà chủ thuyết Cathares đă nhanh chóng bành trướng
mạnh mẽ, như vũ băo trong các vùng lớn rộng, đông cư dân, buôn bán phồn thịnh,
với mức độ sinh hoạt văn hoá cao nhất Âu Châu như : Pháp, Tây Ban Nha, vùng
Flandre, và các vùng Trung Ư, Bắc Ư v.v... Thực ra lối sống phi ngă của các giới
tín đồ đạo này cực kỳ đơn sơ, thanh đạm, từ cá nhân đến tập thể đều không màng
ǵ đến tài sản, đă trở thành một tấm gương sáng rạng rỡ trước mắt mọi người.
Điều này vô h́nh chung đă làm nổi bật lên trong con mắt của các giới quần chúng,
nếp sống xa hoa, dâm bôn, trụy lạc, quyền hành hách dịch, và tư cách bon chen,
tham lam tiền bạc, tích lũy của cải, chiếm đoạt công điền công thổ làm tài sản
riêng cuả các giới tu hành TCG La Mă. V́ thế, lúc bấy giờ đă có nhiều linh mục
TCG cải đạo, theo giáo phái Cathares. Đây là mối lo sợ trong tâm can của toà
thánh La Mă. Nhưng trước hội nghị Giám Mục Saint -Félix (concile), phản ứng
chính thức của toà thánh vẫn c̣n yếu.
Đến năm 1170, nguy cơ băng hoại đă hiện ra trước mắt, Giáo Hoàng Alexandre III
mới lên tiếng công khai kết tội Cathares là tà giáo, nhưng vẫn c̣n dè dặt, chưa
dám dùng bạo lực đương đầu. Măi tới 14 năm sau, nhân đại hội giám mục Vérone ,
năm 1183, Giáo Hoàng Innocent III mới bắt đầu ra lịnh cho các giám mục dùng
quyền buộc các tín đồ Cathares phải cải đạo, và khởi sự dựng nên những ṭa án
giáo h́nh (Inquisition) để xử những người dị giáo.
Chiến dịch này đă diễn ra trên hai mặt: Một mặt TCG La Mă tỏ ra cầu nguyện hoà
b́nh, sai các giáo sĩ ḍng Xi Tô (cisterciens) lập thành một đạo Thập Tự Giá ,
không vơ trang, đến vùng Midi trong nước Pháp, là nơi tập trung đông đảo tín đồ
Cathares vào cuối thế kỷ XII, để thuyết giáo và kêu gọi cải đạo. Ngay cả những
linh mục và giám mục đă bỏ đạo theo Cathares cũng được hứa hẹn cho hoàn đạo. Mặt
khác, Giáo Hoàng Innocent III hô hào tín đồ TCG tham gia chiến tranh chống tà
giáo.
Đến năm 1208, nhân vụ giáo sĩ Pierre de Castelnau, một trong số các Công Sứ Toà
Thánh, bị giết chết ở Saint- Gilles, có thể với sự đồng lơa cuả Bá Tước Raymond
VI, comte de Toulouse. Người ta nghi vị Bá Tước này đă bảo vệ giáo phái
Cathares, để mong thoát ách của toà thánh, đồng thời tạo áp lực với toà thánh để
đ̣i lại đất đai, tài sản cuả ông, đă bị toà thánh chiếm đoạt. Lập tức Giáo Hoàng
Innocent III liền ra tay đàn áp đẫm máu ngay. Vào mùa Xuân, năm 1209, một đạo
quân Thập Tự Gía được lịnh tràn vào chém giết trong vùng Languedoc, không chừa
một con đỏ!
Đến năm 1216, Giáo Hoàng Innocent III qua đời. Các vị Giáo Hoàng khác: Honorius
III rồi Grégoire IX thay nhau lên nối ngôi, tiếp tục chương tŕnh tiêu diệt dị
giáo bằng tất cả mọi phương tiện vơ lực tàn bạo nhất, lồng trong danh từ công lư
cuả đức Chúa Trời.Về mặt thế tục, hoàng đế Frédéric II muốn tỏ ḷng trung thành
phục vụ tôn giáo, cũng hưởng ứng theo phong trào tiêu diệt dị giáo cuả ṭa
thánh. Trong khoảng thời gian từ năm 1220 đến 1239, nhà vua đă ban hành một số
chỉ dụ, ngày càng độc ác, và nghiệt ngă hơn, từ tịch thu tài sản rồi tống đi
biệt xứ, cho đến bỏ tù chung thân, và cuối cùng là đem lên dàn hoả thiêu sống.
Đến khoảng năm 1252, giáo sĩ Pierre de Verone, một vị quan toà dị giáo nổi tiếng
phục vụ đắc lực từ thời Grégoire IX, bị ám sát chết, rồi 2 năm sau, được Giáo
Hoàng Innocent IV phong làm một vị thánh tử đạo gương mẫu, th́ giáo phái
Cathares kể như chỉ c̣n là một kỷ niệm, và một huyền thoại mờ nhạt trong kư ức
của con người.
Đến năm 1250, giáo sĩ Raniero Sacconi, một vị quan toà dị giáo công bố minh xác:
Trên toàn thế giới, bây giờ chỉ c̣n khoảng 4 ngàn nam nữ tín đồ Cathares sống
sót.Trong số có khoảng ngót hai trăm người sống lẩn lút trong vùng từ Albi đến
Carcassonne. Một số khác, đông hơn, chừng 1150 người, sống mai danh ẩn tích
trong các vùng Concorrezzo. C̣n lại, khoảng 500 người khác sống trong vùng
Desenzano...
Tóm lại, cuộc chiến tranh tôn giáo này đă kéo dài suốt 20 năm, với không biết
bao nhiêu thảm cảnh kinh hoàng, đẫm máu và nước mắt của vô số tín đồ Cathares vô
tội, nạn nhân của niềm tin thánh thiện, chỉ muốn xây dựng một tín ngưỡng lương
hảo, toàn thiện trên cơi thế gian này mà thôi!
¤
III.- CON NGƯỜI DO ĐÂU MÀ RA?
1.- CON NGƯỜI TRONG HUYỀN THOẠI:
KHỞI NGUYÊN CON NGƯỜI TÊN G̀?
Bây giờ bàn về con người (lhomme / humus- II ,5-6), ta thấy, con người được mang
2 cái tên khác nhau. Về thực thể, gọi là: homo (tiếng La Tinh), và anthropos
(tiếng Hy Lạp).
Trong huyền thoại của thánh kinh, viết bằng tiếng Hê Brơ, gọi là Adam. Xét về
ngữ nghĩa học (sémantique), ta thấy, từ này có lẽ bắt nguồn từ chữ Adâmâ , chỉ
loại đất màu vàng, một chất đất sét mà ông trời trong thánh kinh đă dùng để nặn
ra con người.
Nên biết, thoạt tiên, khi bà Eve chưa được ông trời tạo ra, th́ cái tên Adam,
dành để chỉ chung con người. Đến khi bà Eve xuất hiện, mới bắt đầu có phân biệt
giống đực, nam (mâle, masculin), và giống cái, nữ (femelle, féminin).
Tiếng La Tinh gọi phái nam là: vir, tiếng Hy Lạp gọi là: anér. C̣n trong thánh
kinh viết bằng tiếng Hê Brơ của giống dân Hê Brơ, tiền thân của dân Do Thái,
người ta thấy ghi đàn ông bằng danh từ chung là: Ish, và đàn bà là: Ishshâ
(II,24). Người đàn bà đầu tiên cuả nhân loại Eve (tên chung) được người Hê Brơ
đặt thêm cho cái tên riêng là: Khawwâ, do chữ khaw có nghĩa: sinh động.
Nên biết, giống dân Do Thái cổ, cũng như các giống dân Su Me (Sémites), gốc Tây
Á khác, mà chủng tộc Babylone đứng đầu, khi họ gọi người đàn ông làIsh và đặt
tên cho người đàn bà là Ishshâ , tức đă minh thị tính đồng nhất của cái tên ấy,
chứng tỏ về căn nguyên Ishsha chỉ là một vật liệu đă được trích ra từ Ish. Đồng
thời c̣n hàm ư, Ish và Ishshâ từ bản thể và cội nguồn vốn là đôi bạntuy hai mà
một, đồng hành gắn bó, cùng một định mệnh, ngày cũng như đêm luôn khắn khít bên
nhau.
ÔNG TRỜI TẠO RA CON NGƯỜI ?
Từ mấy ngàn năm nay, trừ một vài nhà nghiên cứu thần học, nhân chủng học và sinh
vật học, tuyệt đại đa số con người trên mặt đất đều phó mặc tư tưởng của ḿnh
cho thuyết ông trời tạo ra loài người,( đă ghi trong các thánh kinh của các tôn
giáo, và đă được các đạo sĩ rao giảng hằng ngày ). V́ thế, con người đă tin
tưởng tuyệt đối vào thánh kinh, nhất thiết cho rằng ông trời là đấng siêu nhiên
có quyền năng tối thượng (omnipotent) và hiện hữu cùng khắp (omniprésent).
Bị nhồi sọ như vậy từ lúc mới mở mắt chào đời, đầu óc c̣n trinh trắng, con người
cứ đinh ninh trên cơi không trung vô tận, bao la kia chỉ có mỗi một ông trời của
ḿnh. Ông trời này, lắm khi đóng vai người bạn tâm t́nh, đôi khi là bậc tổ tiên
đầy quyền lực có thể nghe lời xưng tội, lời sám hối, và được dâng cúng lễ vật để
cầu xin che chở trong bóng tối. Nhưng trong vài trường hợp, ông ta cũng đă trở
thành một phán quan mặt sắt đen ś, hay một tay đao phủ khát máu, sẵn sàng sai
bọn quỉ sứ lên trần gian bắt con người đem xuống hỏa ngục, tra khảo nhục h́nh,
dă man chẳng khác nào những phiên ṭa giáo h́nh (Inquisition) của ṭa thánh La
Mă xử bọn Ca Tha, và các nhà bác học Giordano Bruno, Galilée... thời Trung Cổ ở
Aâu Châu.
Ngoài ra, con người không biết [ hay biết mà không muốn chấp nhận (?)] trong
trời đất này cùng một lúc c̣n có nhiều loại ông trời khác nữa. Những ông trời đó
cũng được các tín đồ cuả ông ta tin tưởng là đấng quyền lực vô biên, và cũng có
khả năng tạo ra con người.
Riêng vấn đề tạo ra con người, mỗi ông trời của một thánh kinh, của một giống
dân, đều thực hiện bằng mỗi cách khác nhau. Xin dẫn chứng sau đây để mọi người
cùng suy nghiệm:
- Riêng thánh kinh viết bằng tiếng Hê Brơ của dân Do Thái cổ đă có tới hai
truyền thuyết, do Jean Bottéro dịch. Một trích từ Document sacerdotal, một trích
trong Yahwiste, khi Êlôhim khởi sự sáng tạo con người và trái đất (Lorsque
Elôhim commenca de créer le ciel et la terre...). Công việc này đă mất đến 7
ngày ṛng ră, chia ra mỗi ngày một việc như sau:
Truyền thuyết 1 (Document sacerdotal):
1.- Thời hỗn mang ban đầu: Elôhim khởi sự chế ra trời và đất. Lúc đó trái đất
c̣n trống rỗng và chỉ là một sa mạc hoang vu.
2.- Chế ra ánh sáng: Elôhim phán:Hăy có ánh sáng! Tức khắc ánh sáng bừng lên tỏa
chiếu. Elôhim phân chia ánh sáng và bóng tối, đặt tên cho ánh sáng là ngày, c̣n
bóng tối là đêm. Đây là thành quả của ngày thứ nhất.
3.- Tách rời nước với trời. Ngày thứ nh́, ông trời làm việc này.
4 & 5.- Đến ngày thứ ba, Elôhim phân chia đất với biển, và chế ra các loài thảo
mộc , rau cải, hoa trái và cây cỏ...
6.- Chế ra các v́ tinh tú gắn trên bầu trời. Đây là công tác của ngày thứ tư.
7.- Ngày thứ năm, ông trời chế ra các loài thủy tộc, thả xuống, cho sống dưới
nước, ngoài biển và trong các sông hồ, ao rạch...
8 & 9.- Elôhim chế ra các loài vật sinh sống trên mặt đất. Rồi cuối cùng ông ta
mới nghĩ đến việc chế ra loài người. Elôhim phán: Chế ra loài người mang h́nh
ảnh của ta, giống ta như một bản sao. Rồi ông ta lại c̣n chế loài người ra thành
2 loại đàn ông và đàn bà. Xong, ông ta phán: Hăy sinh sản và tăng trưởng; hăy
trám đầy mặt đất và khuất phục nó! Hăy quản lư các loài thủy tộc dưới biển và
các loài chim trên trời và các loài thú trên mặt đất. (Soyez féconds et
multipliez-vous; remplissez la terre et soumettez la! Régissez les poissons de
la mer et les oiseaux du ciel, et tous les animaux qui se trainent sur la
terre!).
10.- Sang ngày thứ sáu, Elôhim đă hoàn tất tốt đẹp công việc chế tạo ra con
người và quả đất.
11.- Đến ngày thứ bảy, sau khi đă thành công mỹ măn công tác sáng tạo, Elôhim,
ông trời của dân Do Thái, coi ngày này như một ngày thiêng liêng, nên đă dành
ngày hết ngày ấy để nghỉ ngơi!
Truyền thuyết 2 (Yahwiste):
1.- Sa mạc hoang sơ. Yaweh (cũng là một tên bằng chữ Hê Brơ, chỉ thượng đế của
dân Do Thái) đă biến sa mạc hoang sơ thành trời và đất. Lúc này chưa có nước, v́
Yaweh chưa chế ra mưa, chưa chế ra các loài thảo mộc và con người.
2.- Yaweh tạo ra con người.
3.- Yaweh tạo ra vườn địa đàng Eden, là một nơi hoàn toàn thanh tịnh
(non-désir), chân thiện (innocent), và tinh khiết (intégrité) trọn vẹn, nằm trên
một vùng đất ở phương đông, với đủ loại thảo mộc, cây trái, hoa quả...và đặt
xuống đó loài người mà Yaweh đă nặn ra. Chính giữa vườn địa đàng c̣n có một cây
cấm , c̣n gọi là cây tri giác (arbre de la Connaissance, hay cây phán đoán điều
phải điều trái, hay/ dở, thiện / ác... Arbre - du- Discernement-
du-Bien-et-du-Mal).
4.- Tưới nước lên vườn địa đàng.
5.- Yaweh dùng con người để làm vườn và chăn nuôi. Nhưng ra lịnh: Nhà ngươi có
thể tùy thích ăn các thứ cây trái trong vườn, nhưng cấm tiệt không được ăn trái
cấm trên cây tri giác. Nếu cứ ăn, ngươi sẽ chết. Ngươi sẽ phải chết! (...si tu
en mangeais , tu mourrais. TU MOURRAIS!).
6 & 7.- Yaweh tạo ra loài vật. Yaweh phán:Con người sống một ḿnh không tốt. Ta
sẽ tạo cho nó bạn đồng hành thích hợp. Thế là ông ta tạo ra các loài chim muông
bay trên trời, các loài thú vật chạy nhảy trên mặt đất, và các loài thủy tộc
dưới nước.
Đồng thời Yaweh c̣n tạo thêm cho con người một phụ nữ đêû sánh đôi. Ông ta đă
gây mê, làm cho con người ngủ thiếp đi, rồi lén rút lấy một miếng xương sườn, và
trám vào chỗ trống ấy bằng một miếng thịt, để tạo nên một người đàn bà, tức
Ishashâ, cho sống chung với người đàn ông, tên Ish. V́ thế, từ đó người đàn ông
đă bỏ rơi luôn cả cha lẫn mẹ, để suốt đời chỉ sống với vợ, vốn là một phần cơ
thể của ḿnh.
8.- T́nh trạng thô sơ, cổ lỗ của Adam và Eve. Mặc dù lúc bấy giờ cả đôi vợ chồng
đều trần truồng, nhưng không ai cảm thấy xấu hổ ǵ cả.
9.- Con rắn cám dỗ người nữ. Con rắn vốn là loài qủi quyệt nhất trong các giống
thú độc hại mà Yahweh đă tạo ra. Con rắn hỏi bà Eve có ăn được các thứ cây trái
trong vườn không. Bà trả lời được hết, duy chỉ có một cây chính giữa vườn ,
Yahweh đă cấm ngặt, không được phép ăn. Nếu căi lời, ăn vào th́ sẽ bị chết. Con
rắn liền bảo cho bà Eve biết :Không bà sẽ không bao giờ chết cả! Bởi chính
Yahweh thừa biết, khi bà ăn trái cuả cây ấy tức th́ tâm thần của bà sẽ được khai
minh, bà sẽ trở thành như Elôhim, có khả năng phân biệt được điều hay, lẽ phải,
cái thiện , cái ác, cái hay cái dở !
10.- Bà Eve thấy trái trên cây ấy trông rất ngon lành, cộng thêm ước muốn được
trở nên thông minh, nên đă hái trái cấm đó xuống ăn, rồi lại c̣n đưa luôn cả cho
chồng là Adam ăn nữa.
11 .- Sau khi vưà ăn xong trái cấm tức th́ hai vợ chồng , ông Adam và bà Eve
liền nhận ra ngay cái thân thể lơa lồ, trần truồng của ḿnh, bèn vội vàng lấy lá
vả làm tấm khố che chỗ kín. Khi đó, bỗng hai người nghe có tiếng chân cuả
Yahweh-Elôhim đang dạo trong vườn, liền ẩn ḿnh sau một thân cây.
12.- Nhưng Yaweh-Elôhim đă gọi ra và cật vấn về chuyện ăn vụng trái cấm, rồi
phán tội, bắt người đàn bà từ đó phải gánh chịu h́nh phạt mang cái bào thai
trong bụng suốt chín tháng, c̣n người đàn ông phải làm lụng cực nhọc cả ngày ,
suốt đời , để kiếm miếng ăn...
Thế rồi người đàn ông đặt tên cho vợ là Khawwâ, do chữ Khaw, có nghĩa là Mẹ cuả
các sinh vật.
13.- V́ tội ăn vụng trái cấm, nên ngay sau đó Yaweh-Elôhim, ông trời cuả dân Do
Thái, đă đày cặp vợ chồng ông Adam và bà Eve xuống trần gian. Nhưng ông c̣n tỏ
ra tử tế, ban cho mỗi người một tấm áo lót (tunique) bằng da để che thân.
Ngay sau khi bị đuổi ra khỏi vườn Điạ Đàng, lập tức tổ tiên cuả loài người, ông
Adam và bà Eve, liền hoá thân thành vật thể (un être matériel) bằng xương bằng
thịt, hốt nhiên phát hiện ra nội tâm cuả ḿnh, tức cái ta, và cuả dục vọng
(désir), đồng thời thực hiện ngay nhu cầu sinh lư quan yếu, để mau chóng truyền
giống lan tràn khắp mặt đất, hầu đóng vai tṛ ngự trị toàn thể quả điạ cầu.
Chương Sáng Thế (Genèse:1,28) ghi nguyên văn câu ông trời đă ra lịnh cho Adam và
Eve như sau: Remplissez la terre et dominez la!.
Nhưng, vẫn theo thuyết tạo thế, trong Cựu Ước Kinh, chương Sáng Thế (Genèse),
sau đó, hết thế hệ nọ đến thế hệ kia, con người đă mất định hướng, đi chệch
đường, lại c̣n quên béng mất ông trời, cứ để cho dục vọng và những xung đột ư
thức hệ sai xử, đẩy ra khỏi con đường chính đạo.
Các đoạn về 2 truyền thuyết trên đây, tôi đă rút gọn bản dịch từ nguyên tác bằng
tiếng Hê Brơ cổ cuả người Do Thái, để chứng minh rằng , ngay trong thánh kinh
nguyên thủy, đặc biệt là 6 quyển đầu, từ chương sáng thế (Genèse) cho tới Josué,
đă có đến hai truyền thuyết khác nhau về sự ra đời của ông Adam và bà Eve, do
ông trời Elôhim của người Do Thái tạo ra. Theo nhận xét của tôi, trong 2 truyền
thuyết trên, chuyện mà người ta gọi là Yahwiste (do chữ Yahwé để chỉ ông trời)
có tính cách lâu đời nhất, khoảng thế kỷ thứ VIII trước kỷ nguyên của chúng ta
ngày nay. C̣n truyền thuyết Document sacerdotal trong thánh kinh (Genèse,I-II
,4a), kể chuyện ông trời tạo ra vũ trụ bao la vô tận với toàn bộ núi sông, biển
cả, và muôn loài điểu thú chỉ bằng một lời phán xuông, khiến chúng ta dù là kẻ
ngộ đạo đến thế nào chăng nữa cũng không khỏi hoài nghi. Cuối cùng, sau muôn
loài điểu thú, ông trời mới tạo ra giống người, nam và nữ (mâles et femelles)
(I,27).
Ngược lại, trong Yahwiste (II, 4a- III), tác giả nh́n vấn đề bằng con mắt khoa
học hơn, có tính cách tập trung và cụ thể hơn về sự cấu tạo con người. Elôhim đă
lấy ngay h́nh ảnh của bản thân ḿnh ra làm mẫu để nặn ra một con người độc nhất,
đầu tiên trong vũ trụ, rồi sau đó mới đến lượt các loài vật. Tựu trung xét cách
cấu tạo ra thế giới, ngôi vườn... của ông trời đều có vẻ thủ công nghệ, và việc
giao cho Adam giữ vườn như một trại chủ, ta thấy Elôhim đă phản ánh khá rơ nét
thực trạng sinh hoạt của giới nông dân, chăn nuôi và làm vườn Do Thái thời bấy
giờ.
ADAM VÀ EVE ĂN TRÁI CẤM
Bây giờ nói đến hành động phạm tội của ông Adam và bà Eve. Dường như từ xưa đến
nay, các nhà tôn giáo đều chỉ nhắm qui kết vào tội không nghe lời Thượng Đế, cứ
ăn trái cấm, theo lời dụ dỗ của con rắn. Giới tín đồ, con chiên hay không con
chiên, thảy đều đinh ninh như thế. Nhưng, nếu có ai đă chịu khó khảo sát thánh
kinh và đă đọc qua một số luận giải của các nhà thần học Do Thái và Thiên Chúa
thời cổ, như Philon và Clément, nhất là tác phẩm Somme théologique(I, article 2
de la question 98) của nhà thần học vĩ đại nhất của giáo hội TCG, thánh Thomas
dAquin..., chắc sẽ không khỏi nghĩ rằng cái tội ăn trái cấm (trông rất ngon lành
và quyến rũ) của ông Adam và bà Eve chẳng qua chỉ có tính cách láo ăn và ṭ ṃ,
vốn là bản chất bẩm sinh của con người, đă mang nặng từ thuở ấu thơ cho măi đến
ngày xuống lỗ. Tội này chẳng có ǵ đáng xử nặng đến mức phải lưu đày xuống thế
gian. Có người c̣n nại cớ ái ân và hành động t́nh dục của cặp Adam và Eve, khiến
cho đặc tính tinh khiết trên ngôi vườn địa đàng Eden của ông trời bị vấy bẩn.
Nhưng cớ này cũng vẫn không xác đáng chút nào. Bởi, vào thời bấy giờ, ở Do Thái
(Israel), nhất là ở Babylone, người ta đă quan niệm hành động giao hợp nam nữ
hoàn toàn có tính cách lành mạnh (saine), hăng say và phong phú, không hề gây
phiền nhiễu cho ai khác. Đến đây, tôi mạn phép dừng tại chỗ này. Nếu không, ta
sẽ vô t́nh sa chân vào lănh vực t́nh dục của con người trong tôn giáo, vốn là
một vấn đề thiết thân, trọng đại nhất của loài người, song lại hết sức nhiêu
khê, phức tạp. Nếu cần biện giải phải tốn cả ngàn trang sách chưa đủ, và sẽ gây
nên nhiều tranh luận không cùng. Giả thiết, nếu có ai c̣n thắc mắc, xin tạm
thời, hăy cứ t́m đọc tuyển tập Cantique des cantiques trong kinh thánh Hê Brơ
của dân Do Thái.
Vậy, tóm lại, tội ăn trái cấm của ông Adam và bà Eve chẳng qua chỉ là một ngụy
cớ, một thứ hỏa mù, để che đậy cho cái tội thực, rất nặng, mà ông trời Do Thái
Elôhim đă báo trước bằng câu:...trở nên như Thượng Đế và có khả năng phân biệt
cái hay và cái dở(être comme Dieu et capable de discerner le Bien et le Mal)
(III,5), và tự nhận thấy trở nên thông minh (hơn) cả ông trời rendu (plus)
intelligent (III,6). Đây mới đích thực là một đại tội không thể nào Elôhim tha
thứ được !
Ta nên biết, từ thuở ban sơ, dân Do Thái vốn tự nhận là một dân tộc đă được
Thượng Đế lựa chọn (peuple élu). Trong thánh kinh của họ có những câu sau
đây:mon serviteur, mon élu ( kẻ tôi tớ của ta, người ta tuyển chọn) (Isaie
42,1), mon peuple, mon élu (dân ta, dân được ta ân sủng)(43, 20), Israel, mon
élu (Do Thái, nước ta ân sủng) (Isaie 45,4), và câu:Jai conclu une alliance avec
mon élu (Ta xác định một sự kết hợp với kẻ ta lựa chọn) (Psaume 89,4).
V́ thế, có thể dân Do Thái đă tự nghĩ: Không một dân tộc nào khác trên thế giới
này được phép thông minh hơn họ. Nên biết các giống dân Xu Me cổ (Sémites), gồm
cả Do Thái, vốn là những giống dân đầu tiên đă biết chế ra văn tự để ghi chép sự
việc và truyền cảm. Vậy, cái tội thông minh hơn (plus) intelligentcuả Adam và
Eva, thủy tổ loài người, ngoài sự hiểu biết, phân biệt hay / dở, phải / trái, sự
BIẾT chẳng phải chỉ có nh́n, thấy, và phân biệt, mà c̣n bao hàm luôn cả sự
thưởng thức, và sự chia xẻ những hiểu biết của người khác. Như thế, trong con
mắt của Elôhim, lúc bấy giờ ông Adam và bà Eva đă chẳng khác nào những đứa trẻ
ranh mănh (malice) đă khôn quá trước tuổi, dám biết hơn cả những người lớn (Do
Thái). Điều này chính là một đe dọa nghiêm trọng đối với uy tín, danh dự, đồng
thời c̣n là một thách đố ngạo nghễ trước vai tṛ độc tôn và độc quyền của ông
trời (dân tộc Do Thái), khiến ông ta sinh ḷng đố kỵ, tị hiềm.
Cứ như chuyện trong thánh kinh mà nói, tội ăn trái cấm của ông bà Adam và Eve đă
trở thành một món tội tổ tông lưu truyền cho đến muôn đời con cháu. Đôi vợ chồng
này chẳng những là nguồn gốc của chúng ta, đă nói lên bản năng yếu đuối của
chúng ta, mà c̣n là một biểu hiện cho số kiếp đau thương vô tận cuả con người.
Nếu đào sâu vào thâm ư của dân Do Thái, ta c̣n nhận thấy hành động ông trời đă
trừng phạt ông Adam và bà Eva chính là một sự răn đe, hăm dọa đối với toàn thể
nhân loại. Dân tộc nào trên thế giới muốn khôn hơn dân Do Thái, muốn thách đố,
muốn chống chọi lại dân Do Thái - một giống người đă được Thượng Đế chọn lựa !-
chắc chắn sẽ không tránh khỏi bị trừng phạt nặng nề như Adam và Eva! Nên biết
đạo Du Già của dân Do Thái c̣n có luật báo phụcTalion,nghĩa là ăn miếng trả
miếng, hay c̣n gọi là luật mắt đối mắt, răng đối răng rất tàn bạo! ( sẽ đề cập
đến trong một chương sau).
Đến đây một câu hỏi cần phải được đặt ra: Các truyền thuyết trên đă ra đời tự
bao giờ? Dĩ nhiên, ngày nay không một ai đủ khả năng để chứng minh được một điểm
thời gian đích xác nào. Nhưng dù sao, tôi nghĩ, ta hăy dựa trên những thuyết về
nguồn gốc vũ trụ ( les cosmogonies de lAntiquité) và lấy ngay thời điểm xuất
phát kinh thánh của đạo Du Ǵa-Cơ Đốc (Judeo-Christianisme), và nguồn gốc của
tộc chủng Hê-Brơ (Hébreu, dân Do Thái cổ), để làm cơ sở. Khi dân Hê Brơ xuất
hiện trong vùng Canaan, khai sáng đạo Du Già, theo sử liệu, vào khoảng 3.200 năm
(trước công nguyên). Vậy các truyền thuyết ấy có thể được coi như đă phổ biến từ
lúc này. Nhưng Canaan là nước nào?
Theo sự t́m hiểu của tôi, Canaan (vùng đất trù phú mà chúa trời đă hứa dành cho
dân Do Thái) thuộc về Trung Đông. Phía đông cuả nó là Mésopotamie (đất Lưỡng Hà,
nằm giữa 2 con sông Eufrat và Tigris, kéo dài từ vịnh Ba Tư đến thủ đô Bagdad
của Irak), phía bắc hướng về Anatolie, phía tây hướng về biển Địa Trung Hải và
Hy Lạp, phía nam hướng về Ai Cập.
Măi cho đến khoảng đầu thế kỷ XII, Canaan vẫn c̣n đóng vai tṛ một vị trí chiến
lược quan yếu về kinh tế và quân sự của khắp vùng Trung Đông. Ta có thể nói vào
thời bấy giờ, Canaan là một ngă tư quốc tế, một trục lộ giao thương rất phồn
thịnh, gồm đủ mọi loại hàng hoá trên thương trường thế giới. Người dân Canaan
thuở đó đă được mệnh danh là những nhà mại bản cuả toàn thể đông phương, và cái
tên chủng tộc Cananéen, hay Phénicien c̣n có nghĩa là: Người buôn bán, đă từng
cạnh tranh và bị giống dân Philistins (có nghĩa: dân vùng biển) tấn công. Khoảng
một ngàn năm sau, chủng tộc Philistins đổi tên là: Palestine (hay Palestinai).
Theo nhiều sử gia, chữ Palestine và Palestinai đă bắt nguồn từ chữ Peleshet
tiếng Hê Brơ cuả người Do Thái. Nhưng có một số người khác lại cho rằng
Palestine vốn bắt nguồn từ chữ Palaistès tiếng Hy Lạp, có nghĩa là kẻ chiến đấu,
hay c̣n gọi là chiến sĩ cuả Thượng Đế...
TRUYỀN THUYẾT CUẢ CÁC DÂN TỘC KHÁC
Ả RẬP./- Ngược lại với các truyền thuyết của dân Do Thái, dân Ả Rập (Arabes),
một sắc dân từng sống chung lẫn lộn với dân Hê Brơ từ thời thượng cổ cho đến bây
giờ trong vùng Trung Đông, lại truyền bá nhiều dị bản về chương Sáng Thế cuả Cựu
Ước Kinh. Căn cứ trên những biên chép của Tabari, chức Kha Líp, vua Thổ Nhĩ Kỳ,
một sử gia biên niên Ả Rập , vào thế kỷ thứ IX, theo vũ trụ luận cuả người Ả
Rập, con người đă được ông trời nặn ra bằng đất có bốn màu khác nhau: Xanh, đen,
trắng và đỏ. Thượng đế đă cấp phái thiên thần Gabriel làm việc này.
Nhưng khi Gabriel vưà cúi xuống, định lấy đất, bỗng có tiếng nói từ trong ḷng
đất phát ra, hỏi Gabriel muốn ǵ, làm ǵ. Gabriel đáp:Thượng Đế muốn dùng đất để
tạo ra con người.
Đất trả lời: Ta không thể để cho ngươi làm việc ấy, bởi con người sẽ vượt khỏi
ṿng kiểm soát, trở nên bất trị, và chúng nó sẽ hủy hoại ta.
Lập tức Gabriel về tâu lại sự phản kháng đó cho ông trời biết. Thay thế Gabriel,
Thượng Đế lại sai thiên thần Michel đi thực hiện sứ mạng. Nhưng Michel vẫn không
làm ǵ khác được, lại về báo cáo cho Thượng Đế biết:Thổ điạ cự tuyệt, không cho
lấy đất để nặn người.
Lần này, ông trời đă xùng lắm rồi, liền đặc phái thiên thần Azrael, vốn là một
vị thần chuyên chủ về sự chết chóc, c̣n gọi là Tử Thần, đi điều đ́nh với ông
Điạ. Vị thần này đă tỏ ra khôn ngoan và cứng cỏi, không chịu để cho ông Điạ
khuất phục dễ dàng như hai vị thần tiền nhiệm.
Lần này, nhờ có Tử thần Azrael mà Thượng Đế đă có được chất liệu cần thiết để
tạo ra giống người trên mặt đất. Nhưng với điều kiện dứt khoát là loài người
không được hưởng đặc tính bất tử (immortel).
Với chất liệu đất ấy, thoạt tiên ông trời mày ṃ nặn ra được h́nh tượng một
Adam. Nhưng suốt bốn năm trời liền sau khi ra đời, anh chàng Adams chẳng chịu
nhúc nhích ǵ, chỉ ngủ kh́. Thấy thế, một thiên thần khác không khỏi ngạc nhiên,
lấy làm lạ, tự hỏi tại sao anh chàng Adam này đă không làm tṛ trống ǵ cả, mà
chỉ nằm ngủû li b́ suốt ngày đêm. Thiên thần này ṭ ṃ bước vào mồm cuả chàng
Adam, khi ngủ luôn há hốc ra như cái hang, để khán nghiệm xem nội tạng cuả anh
chàng này có hoạt động b́nh thường không. Vị thiên thần này càng ngạc nhiên hơn,
khi thấy phía trong cơ thể cuả Adam hoàn toàn trống rỗng, nên đă báo cáo cho
Thượng Đế biết. Lúc đó ông trời mới biết sự khiếm khuyết ấy, liền quyết định lắp
ráp ngay cho Adam một bộ máy tinh sảo gọi là linh hồn , đồng thời ban cho con
người được hưởng quyền tối thượng là làm chúa tể trên mặt đất, chúa tể muôn
loài, và được phép tự ư đặt tên, tạo linh hồn và tinh thần (tiếng Ả Rập gọi là:
djiinns) cho tất cả mọi loài cây cỏ, thiên nhiên, và vạn vật chung quanh , kể cả
núi rừng, sông , biển v.v...Mỗi khi con người đặt tên cho một loại nào tức được
quyền làm chủ tể ngay loại đó.
Xét về nguồn gốc loài người, càng đi sâu vào lănh vực này, ta càng thấy có nhiều
truyền thuyết khác nhau đến vô cùng. Bởi thế, để giới hạn phần nào, nơi đây, tôi
mạn phép chỉ nêu giản lược một số truyền thuyết có tính đặc trưng nhất mà thôi.
HY LẠP./- Người Hy Lạp cho rằng sau trận đại hồng thủy, chỉ c̣n Deucalion và vợ
là Pyrrha sống sót. Về sau, hai người này đă trở nên thủy tổ của loài người.
Muốn biết rơ nguồn gốc câu chuyện, xin mời bạn đọc hăy chịu khó bước theo tôi
trong giây lát, đi sâu vào kho tàng huyền thoại cuả nền văn minh tối cổ Hy Lạp
sau đây:
Deucalion vốn là một đấng anh hùng Hy Lạp về truyền thống hồng thủy đông phương
mà huyền thoại đă có ghi trong tất cả các tôn giáo cổ. Vị thần này là con trai
cuả thần Prométhée và nữ thần Océanide Clyméné. Deucalion kết duyên với nàng
Pyrrha, ái nữ cuả thần Épiméthée, và cư trú tại Thessalie.
Khi thượng đẳng thần Zeus quyết định tiêu diệt hết loài người, v́ cho rằng thói
bất lương cuả giống người chẳng những là một sỉ nhục cho Thượng Đế mà c̣n là một
mối hiểm hoạ triền miên, bất tận.
Nên biết trong kho tàng thần thoại của văn hóa Hy Lạp, thượng đẳng thần Zeus,
vốn là chúa tể của những hiện tượng khí hậu (phénomènes atmosphériques), có khả
năng chiếu sáng không trung, bao phủ mây, phân phối mưa, nắng hay tuyết, tạo sấm
chớp...Do đó trong văn hóa Âu Châu đă có câu thành ngữ để chỉ lúc trời mưa hay
trời sấm chớp là: Zeus pleut ou Zeus tonne. Ngoài ra thần Zeus c̣n coi như cha
của các thần và cha của loài người, v́ ông là vị thượng đẳng thần, chúa tể vũ
trụ, cai quản từ trên trời xuống đến dưới đất.
Tại sao lại chỉ có Deucalion và Pyrrha được sống sót ? Bởi trước khi tạo ra trận
đại hồng thủy khủng khiếp để tiêu diệt toàn thể nhân loại, thượng đẳng thần Zeus
đă báo tin cho Prométhée (cha cuả Deucalion) biết trước, và khuyên nên đóng một
cái ḥm (coffre) lớn, để cho vợ chồng Deucalion và Pyrrha có thể ẩn náu trong đó
suốt chín ngày chín đêm, là thời gian trận đại hồng thủy diễn ra trên khắp mặt
đất. Thần Prométhée đă tuân hành lời dạy của Thượng Đế. Khi trận đại hồng thủy
diễn ra, quả đất bị nhận ch́m sâu trong ḷng nước, toàn thể loài người gian ác,
bất lương đều bị tiêu diệt không c̣n sót mống nào. C̣n chiếc ḥm đă được sóng
đẩy lên tận đỉnh núi Parnasse. Nhờ vậy vợ chồng Deucalion và Pyrrha đă thoát
khỏi cơn thịnh nộ điên cuồng cuả thượng đẳng thần Zeus.
Sau đó thượng đẳng thần Zeus liền gửi thần Hermès, con của ngài, làm sứ giả, đến
hỏi vợ chồng Deucalion và Pyrrha xem có ước nguyện ǵ muốn tŕnh lên Thượng Đế
không. Hai người này trả lời, trong cảnh sống cô đơn, họ ao ước loài người lại
được tái sinh. Nghe lời ước, thần Zeus phán: Hăy che mặt lại và ném những khúc
xương của bà nội các ngươi về phía sau lưng.
Sau một thời gian khá lâu suy nghĩ để khám phá ra ư nghĩa bí hiểm trong câu nói
này, cuối cùng hai người chợt tỉnh ngộ, hiểu được rằng những khúc xương kia
chẳng phải thứ ǵ khác hơn những viên đá phủ trên mặt đất (Terre, bà nội cuả
Deucalion). Lập tức hai người thực hiện ngay lời dạy của thần Zeus. Những viên
đá nào do Deucalion ném liền hóa thành đàn ông. C̣n những viên đá nào do Pyrrha
ném liền biến thành những người đàn bà.
Thế là từ đó loài người lại được tái sinh trên mặt đất, tuy có phần thô kệch,
nhưng can đảm hơn lớùp người trước...
MỄ TÂY CƠ./- Mặt khác, theo thuyết vũ trụ luận , có pha lẫn nguồn gốc tín ngưỡng
cổ với giáo điều Thiên Chúa rất phổ cập cuả người Mễ Tây Cơ, vào thế kỷ thứ
XVII, ông trời đă tạo ra con người bằng đất sét (glaise), rồi bỏ vào ḷ nung cho
chín. Mẻ đầu, nung lâu quá, khiến cho con người bị cháy đen, ông ta cho rằng như
thế là thất bại, liền quẳng sản phẩm ấy xuống trần gian, rơi xuống vùng đất Phi
Châu.Đó là thủy tổ giống người da đen. Dù vậy, ông vẫn chưa chịu từ bỏ ư định
tạo ra một mẫu người khác. Lần này, ông ta rút kinh nghiệm, bỏ h́nh nhân vào ḷ
nướng trong chốc lát rồi lấy ra ngay. Chẳng dè bị non lửa, sản phẩm cuả ông chưa
chín tới, nên hăy c̣n sống nhăn, và bề ngoài trông trắng nhách. Lại thất bại,
ông trời bực ḿnh ném cái tượng người ấy xuống mặt điạ cầu, rơi ngay vào vùng Âu
Châu. Đó là tổ tiên cuả giống bạch chủng , dân da trắng.Tuy đă hai lần không vừa
ư, nhưng ông trời vẫn c̣n thừa kiên nhẫn, để thử nghiệm lần thứ ba. Lần này ông
cẩn thận hơn, chịu khó canh chừng ḷ nướng chu đáo hơn. Ông ta chờ đợi , theo
dơi cho đến khi thấy cái h́nh nhân bằng đất sét của ḿnh vưà chín tới, vàng ươm,
liền lấy ra ngay. Thành công mỹ măn, ông ta thích chí lắm, nâng niu , trịnh
trọng đem bức tượng h́nh người mẫu cuả ông đặt một cách êm ái xuống vùng đất Mỹ
Châu. Từ đó giống dân Mễ Tây Cơ đă ra đời. Đó là nguồn gốc cuả giống da vàng và
da nâu!
THỔ NHĨ KỲ./- Khác với truyền thuyết cuả dân Mễ Tây Cơ, người Thổ Nhĩ Kỳ không
đề cập đến Thượng Đế, - có lẽ bởi ảnh hưởng cuả đạo Hồi (?)- mà chỉ cho rằng
thủy tổ loài người vốn ra đời trong một cái hang, trên ngọn núi đen. Trong hang
đó có một cái hố h́nh người, khi trời mưa, nước lũ cuốn theo đất sét trút đầy
cái hố đó, như thể đúc khuôn. Chấ½t đất sét nằm trong cái hố sâu đó, hằng ngày
bị sức nóng của mặt trời thiêu đốt trong suốt 9 tháng. Khi vưà đủ 9 tháng, h́nh
người bằng đất sét nung ấy bỗng nhiên hoá thân thành người ta , và trở nên thủy
tổ cuả nhân loại, mà người Thổ gọi là: AY- ATAM, có nghĩa người cha Mặt Trăng.
Nên biết dân Thổ cũng như đa số dân Ả Rập Hồi giáo đều thờ Mặt trăng, và trên lá
cờ Thổ màu đỏ có h́nh mặt trăng lưỡi liềm.
MÔNG CỔ./- Riêng người Mông Cổ , ở vùng viễn Á, cũng cho rằng Thượng Đế đă tạo
ra thủy tổ loài người. Khởi đầu, ông trời đào một cái hố sâu dưới đất làm khuôn
nhân dạng. Rồi ông trổ tài hô phong hoán vũ, tạo nên một trận mưa băo dữ dội,
khiến nước lũ cuốn bùn śnh lấp đầy hố. Sau cơn mưa băo, trời quang , mây tạnh,
vạn vật đều khô ráo. Khi đó mẫu người đúc bằng đất bùn kia, chẳng khác nào chiếc
bánh nướng vào dịp lễ Trung Thu cũng đă chín tới, trở nên cứng cáp, liền bật
đứng lên, hoá thành thủy tổ cuả loài người.
NAVAJO./- Nếu người Mông Cổ và người Thổ đă quan niệm sự h́nh thành loài người
một cách khá giản dị như trên, th́ ngược lại, truyền thuyết cuả dân Navajo có
phần phức tạp hơn, và đượm ít nhiều mùi vị triết lư, thần thoại hoang đường,
không kém ǵ vũ trụ luận cuả dân Hê Brơ. Thoạt tiên, trong trời đất chỉ có độc
một loài nửa người nửa thú (des êtres mi- animaux mi-hommes). Giống phi nhân phi
thú này đă bị săn đuổi xuyên qua 3 vùng trời. Cuối cùng giống phi nhân phi thú
ấy đă xuống đến mặt đất, và đă được bốn vị thần cuả điạ phương, gồm bốn màu:
vàng, xanh, đen, trắng, đến viếng. Các vị thần này dự tính dùng các động tác và
cử chỉ để dạy dỗ giống phi nhân phi thú ấy. Nhưng đầu óc cuả giống vật bất thành
nhân dạng ấy ngu đần quá, nên không lĩnh hội được một tí ǵ. Thấy thế, các vị
thần đều thối chí, muốn buông bỏ. Duy một ḿnh vị thần màu đen vẫn cố gắng giải
thích và biện hộ cho bản chất u mê, tŕ độn và dơ bẩn cuả giống phi nhân phi
thú. Vị thần này ra lịnh cho bọn phi nhân phi thú:Bốn ngày nưă các vị thần kia
sẽ trở lại. Vậy các ngươi hăy tắm gội cho sạch, để được tham dự một thánh lễ cấu
tạo loài người!
Đúng hẹn, các vị thần trở lại, đem theo nhiều vật dụng đủ loại, như da đanh
(daim), hai nhánh râu bắp, một vàng, một trắng, rồi tiến hành một cuộc lễ kỳ bí
. Từ nhánh râu bắp màu trắng bỗng hiện ra một người đàn ông, c̣n nhánh râu bắp
màu vàng hiện ra một người đàn bà. Đôi nam nữ này liền được đặt vào trong một
ṿng rào bao quanh kín đáo. Chẳng bao lâu sau, cặp trai gái này đă sản xuất ra
được 5 đôi trẻ con song sinh. Đứa trẻ đầu tiên mắc chứng lưỡng tính
(hermaphrodite) dành cho sự vô sinh (stérilité), c̣n những đứa trẻ khác đều có
khả năng sinh sản tốt đẹp. Về sau, lớp con cái cuả chúng đă kết hôn với giống
dân thuộc chủng tộc ảo tưởng (peuple du mirage). Chính do sự pha giống
(métissage) này mà từ đó loài người bây giờ đă có mặt trên quả điạ cầu!...
HIỀN TRIẾT PLATON NÓI G̀ VỀ NGUỒN GỐC LOÀI NGƯỜI?
Đoạn nói về truyền thuyết nguồn gốc loài người mà tôi sắp đem vào đây không nằm
trong thánh kinh (tiếng Do Thái ha-séfarim: les livres) của người Do Thái hay Ả
Rập. Chỉ là một trích lược từ một tác phẩm quan trọng, trong số các tác phẩm giá
trị lớn lao, cuả nhà đại hiền triết Hy Lạp, Platon (427-347 tTC),cha đẻ triết
thuyết thuần khiết, duy tâm, trước khi chúa Jésus ra đời, nhan đề Le Banquet
(bữa tiệc). Tác phẩm này tổng hợp tất cả những nghị luận cuả các vị hiền triết
tham dự trong bữa tiệc về đề tài ái t́nh. Trong đó có đề cập đến cặp Adam-Eve và
tội tổ tông (péché originel) và sự trừng phạt tội gốc (punition originelle).
Truyền thuyết này như sau:
Ngày xưa con người không như bây giờ. Trước hết không có hai giống nam nữ, mà
tới 3 giống. Giống thứ ba tổng hợp cả hai giống trên. Ngày nay giống này hầu như
đă bị tuyệt chủng. Nhưng vào thời bấy giờ, giống đó có tên đặc biệt gọi là:
Lưỡng tính (androgyne). [...] Thời đó, con người có cái lưng tṛn và hai bên
thân có đến 4 tay và 4 chân, hai mặt giống nhau như đúc đặt trên một cái cổ
tṛn. Hai cái mặt ấy có chung một cái sọ, hướng về hai phía khác nhau. Như thế,
mỗi người có tới 4 cái tai, và bộ phận sinh dục dĩ nhiên cũng gấp đôi...Những
con người ấy có sức mạnh phi thường, cũng đi đứng theo ư muốn như chúng ta ngày
nay. Nhưng khi muốn đi nhanh, con người phải quay tṛn bằng cả 4 chân và 4 tay
dang thẳng, theo kiểu bánh xe lăn, như những lực sĩ nhào lộn của mấy gánh xiệc.
Trước sức mạnh cuả giống người cổ đại, thô sơ này, các vị thiên thần cảm thấy bị
đe doạ đáng ngại, nên thượng đẳng thần Zeus đă phải lấy một quyết định căn bản,
phán rằng:
- Ta sẽ chẻ tụi này ra làm đôi. Như vậy chúng nó sẽ yếu đi và ích lợi hơn cho
chúng ta. V́ nhân số sẽ tăng gấp đôi. Từ đó con người bắt đầu đi bằng hai chân;
nhưng hoạt động coi bộ c̣n trục trặc, không ổn định trơn tru.
Thấy thế Zeus lại phán: Ta sẽ chẻ chúng ra làm đôi lần nữa!
Thế là Zeus thực hiện ngay ư muốn như đă định. Lần này con người muốn di chuyển
phải nhảy c̣ c̣ (à cloche-pied) bằng một chân. Coi bộ không hay, lúc bấy giờ
thần Apollon, chuyên chủ về y khoa, mới lănh sứ mạng khâu lại (suture) hai phần
cơ thể vào nhau. Sự khâu vá ấy đă để lại trên thân thể chúng ta bây giờ một cái
sẹo sâu hoắm, với cái tên là lỗ rún (rốn)!
Bởi sự tháp ghép này mà chúng ta bây giờ mỗi người đều là một phần của nhân
h́nh. Từ một thân thể đồng nhất, thượng đẳng thần Zeus đă xẻ thân chúng ta ra
làm đôi như cái móng lừa. Khiến từ đó mỗi con người chúng ta luôn luôn âm thầm
nuôi khát vọng t́m kiếm lấy phần thân thể phụ thuộc của ḿnh. Nhưng kẻ nào mà
thần Apollon ghép bằng 2 mảnh nam + nữ, trở thành giống lưỡng tính (androgyne).
Những kẻ nào ráp bằng 2 mảnh nam + nam, trở thành đàn ông th́ lúc nào cũng khao
khát đàn bà. Ngược lại, nếu là đàn bà th́ khao khát đàn ông...
Bây giờ đến lượt thần Héphaistos, tổ sư thợ rèn (forgeron), xuất hiện, nói với
con người: Các ngươi có muốn kết hợp chặt chẽ với nhau, ngày đêm không rời nhau
giây phút nào không? Nếu muốn, ta sẽ hàn các ngươi lại với nhau, hai thành một.
Khi c̣n sống hai ngươi sẽ sống chung với nhau, và sau khi chết , nơi thế giới
bên kia, các ngươi vẫn sẽ chỉ là một mà thôi. V́ các người đă cùng chết...
Con người nghe lời của Héphaistos, vả chăng từ lâu, trong thâm tâm cũng đă ấp ủ
sẵn khát vọng kết hợp vĩnh viễn suốt đời, nên vô cùng hoan hỉ...
Tại sao tôi lại kể thêm chuyện này cuả Platon vào đây? Mục đích chỉ cốt cho mọi
người thấy rằng, truyền thuyết về ông trời, bất cứ lúc nào, ai phịa ra cũng
được. Càng hoang đường, kỳ bí càng hấp dẫn, càng được nhiều người khoái chí nghe
theo. Bởi Platon, dù đă ra đời trước chúa Jésus hàng mấy trăm năm, song cũng chỉ
là một con người bằng xương bằng thịt như chúng ta mà thôi!
2.- CON NGƯỜI TRONG TÔN GIÁO
Trong lănh vực này, dĩ nhiên những ai có tín ngưỡng, là tín đồ tôn giáo, bất kỳ
tôn giáo nào, đều tỏ ra mặc nhiên thưà nhận những thuyết siêu nhiên nêu trên. Có
thể, trong thâm tâm nhiều tín đồ cũng chẳng tán đồng một vài điểm nào đó trong
kinh thánh. Nhưng bề ngoài, họ vẫn giữ thái độ im lặng , tiêu cực, không dám
công khai bàn căi hay chống báng. V́ sợ bị khép tội chối chúa, báng đạo, và bị
đem ra toà án giáo h́nh (inquisition)? Hay đă thuấm nhuần đức tin? Không ai biết
được!
Tư tưởng ấy, và hành vi đó đă ngấm ngầm lưu truyền từ đời nọ sang đời kia, thẩm
thấu vào tim óc cuả con người như một thứ vi khuẩn truyền nhiễm bất trị.
Nhưng, theo luật biến thiên cuả tạo hoá, trí thông minh cuả nhân loại ngày càng
phát triển mạnh mẽ. Trong thời gian mấy trăm năm gần đây, các phát minh khoa học
đă liên tiếp đánh phá tan hoang không biết bao nhiêu bí ẩn cuả vũ trụ, đă gây
phá sản đến gần như khánh kiệt niềm tin cuả nhiều chủ thuyết siêu linh. Từ đó,
vũ trụ quan và nhân sinh quan cuả loài người bắt đầu bước vào một khúc quanh mới
mẻ. Kể từ đầu thập niên 70, khi con người đă thành công trong việc thám hiểm mặt
trăng, và các hành tinh xa xôi khác trong không gian vô tận, tự nhiên con người
đâm ra nghi ngờ tất cả các triết lư tôn giáo, và các truyền thuyết siêu linh đă
được trang trọng ghi trong các bộ thánh kinh cuả nhân loại, đặc biệt nhất là vấn
đề ông trời, hay c̣n gọi là Thượng Đế !
Theo định nghiă truyền thống từ thời thượng cổ, ông trời vốn có quyền năng tối
thượng (omnipotent) và có tính hiện hữu khắp mọi nơi (omniprésent). Từ lâu đă
không ai dám nghị bàn điều ấy, e mang tội báng bổ. Nhưng, bây giờ có người đă
bắt đầu nêu lên thắc mắc: Nếu quả nhiên ông trời có thực, tức là lúc nào ông
cũng hiện diện khắp mọi nơi và làm được mọi thứ việc, mà ngoài ông ta không ai
làm được. Nhưng nếu đă là một đấng toàn năng như thế, vậy liệu ông có sản xuất
ra được một thế giới mà nơi đó ông không cần phải có mặt, và không cần phải vận
động ǵ tất cả hay chăng?
Câu hỏi có vẻ ngớ ngẩn ấy xem chừng lại rất khó trả lời. Bởi cho đến bây giờ,
ông trời làm ǵ đă luyện được chưởng lực thần thông cách sơn đả ngưu như trong
truyện kiếm hiệp cuả kim Dung. C̣n việc chế tạo ra hệ thống điều khiển từ xa
(télécommande), hay các dàn người máy Robot, như các nhà khoa học điện tử vi
tính ngày nay, chắc chắn ông trời đành chịu bó tay!
Huống chi, ông trời vốn thuộc loại vô h́nh, trừu tượng, làm sao có thể sản xuất
ra được những vật thể hữu h́nh? Ta nên biết, cho đến nay,óc sáng tạo cuả loài
người đă phát triển vượt bực. Nhưng chẳng một ai đă h́nh dung ra nổi một ông
trời như thế nào. Trong các thánh kinh, người ta chỉ thấy toàn h́nh cuả ông ADam
, bà Eve, thuộc chủng da trắng , trần truồng như nhộng. C̣n các ông Adam bà Eve
da đen, da vàng, da đỏ...sao không thấy đâu cả?
Ngoài ra, người ta cũng đă h́nh dung ra được các thiên thần có đôi cánh lớn lông
lá xù x́, nặng chịch xuất hiện trong các đám mây. Hơn thế, người ta c̣n tỏ ra
thừa khả năng tưởng tượng được mấy con qủi Satan, râu quai nón xùm xề, mũi khoằm
như mỏ con kên kên, mặt dữ dằn, hung ác trông chẳng khác nào những tên hải tặc
Viking già nua, trên đầu nhô lên cặp sừng nhọn lểu, với cái đuôi chẳng khác đuôi
ngựa dài ḷng tḥng, trong tay lăm lăm một cái chĩa ba. Những tên tử thần này
được h́nh dung bằng một bộ xương khô trắng hếu (chắc mới chết, đă lóc hết thịt
ngay, chớ xương người chết lâu ngày đều ngả màu vàng khè ?!)...
Nơi đây, một câu hỏi cần phải được nêu lên: Ông trời đă tạo ra bọn qủi sứ tàn
ác, và bọn tử thần gớm ghiếc ấy đề làm ǵ?
Bọn này vốn tiêu biểu cho những thứ tội ác tàn bạo nhất thế gian.Riêng mấy tên
qủi sứ c̣n hành động phản bội trắng trợn lại ông trời, chống phá lại ông trời,
muốn tiếm đoạt quyền năng cuả ông trời và đă dụ dỗ loài người theo chúng để làm
phản ông trời....Vậy, tại sao suốt mấy ngàn năm nay ông trời vẫn dung túng bọn
chúng, không trừng phạt, không hóa phép thần thông xiềng đầu chúng ném vào hoả
ngục? Hay là chính ông cũng sợ chúng luôn? Hoặc là ông đă không làm ǵ nổi
chúng, v́ khả năng của chúng cũng ngang ngửa với ông ?
Như thế hiển nhiên ông trời đă không phải là kẻ đă sinh ra chúng. Vậy ai là
người đă sinh ra chúng? Nếu quả thật trên không trung c̣n có một kẻ nào đó đă
sinh ra bọn quỷ dữ ấy, chắc chắn kẻ này phải tài ba hơn ông trời một bực!
Ngoài những chuyện huyễn hoặc có tính cách hoang đường, lủng củng về ông trời
như đă kể trên, ta c̣n thấy, từ thời thượng cổ đến nay, các nhà khai sáng tôn
giáo đă tuyệt nhiên không sao h́nh dung ra nổi cảnh thiên đàng. Nhất là phương
cách cấu tạo các loài vật. Tuyệt nhiên các thánh kinh không đề cập đến một chữ
nào. Tại sao? Phải chăng bởi các giống vật ấy đều không biết đọc và không biết
nghe lời giảng cuả các nhà tôn giáo, nên không nhồi sọ chúng được?
Vậy, bây giờ đă đến lúc, thuyết ông trời đă đẻ ra giống người và ban cho con
người quyền làm chúa tể muôn loài, thiết tưởng cần phải xét lại một lần cho đàng
hoàng. Đành rằng trong thế giới văn minh ngày nay, ai cũng biết mỗi nhà sáng chế
đều có một cách phát minh riêng. Nhưng chiếu theo thuyết vũ trụ luận cuả các tôn
giáo và các dân tộc đă nêu trên, ta không khỏi ngạc nhiên thấy, sao mà lắm thứ
ông trời quá. Ông trời cuả đạo Du Ǵa (Judaisme), đạo Thiên Chuá La Mă
(Catholicisme, Christianisme), đạo Tin Lành (Protestantisme), đạo Cơ Đốc chính
thống (Orthodoxe), đạo Hồi Hồi (Islam), đạo Bà La Môn (Brahmanisme), đạo Ấn Độ
(Hindouisme)...Ngoài ra, căn cứ trên kinh sách, ta c̣n thấy có nhiều loại ông
trời khác, mang tính điạ phương, hay chủng tộc. Chẳng hạn như: Ông trời Marduk
cuả dân Babylone. Ông trời Aton, độc nhất cuả dân Ai Cập (Akhénaton/ Hymne à
Aton), người đẻ ra độc thần giáo (monothéisme), mà về sau Moise đă thay tên Aton
bằng tên Yahvé (thần núi lửa) v.v...[ Riêng trường hợp đạo Phật, đạo Khổng, và
đạo Lăo, v́ không chủ trương ông trời đẻ ra con người, nên tôi sẽ đề cập đến
trong một chương sau].
Hiển nhiên các loại ông trời này đều do các đạo sĩ tự đặt ra, dùng như một thứ
b́nh phong, một ông ngoáo ộp, để núp vào đó mà hù dọa, lợi dụng những kẻ khờ
khạo, nông nổi, cả tin. Dĩ nhiên, khi nhân loại c̣n sống trong thời kỳ man dại,
chưa có luật lệ thành văn minh bạch, việc đẻ ra những ông trời và lũ qủi sứ hung
dữ, làm tay sai, với những h́nh phạt ghê gớm dành cho bọn người gian ác, kể ra
cũng cần thiết. Nhưng chỉ cần thiết trong thời kỳ đó thôi. Nên biết thời gian
không bao giờ ngưng tụ lại một chỗ. Ngày hôm nay khác với ngày hôm qua, và cái
luồng diễn tiến không ngừng nghỉ ấy cuả thời gian cứ tiếp tục trôi đi, bây giờ
h́nh ảnh những tên qủi sứ, và những ông trời toàn năng hiện hữu cùng khắp đă trở
thành phản tác dụng, và vô cùng nguy hiểm cho nền an ninh chung của nhân loại.
Muốn chiêm nghiệm điều này, không cần t́m đâu xa, ta hăy lấy ngay những hành
động đă và đang diễn ra cuả giới đạo sĩ (rabbins) Do Thái ở Israel và tín đồ
cuồng tín cuả đạo Hồi Giáo ở Afghanistan, ở Palestine, và nhiều nơi khác th́ đủ
biết. Hiện nay, nhân loại đă bước vào đệ tam thiên niên kỷ, nhưng các người ấy
vẫn c̣n cố t́nh nắm níu vào những điều đă ghi trong thánh kinh từ mấy ngàn năm
trước để kéo lùi ṿng quay của bánh xe tiến hoá về thời trung cổ!
Chính v́ những hành động ấy mà trong giới tín đồ của một vài tín ngưỡng đă sinh
ra chuyện ông trời cuả mày, ông trời cuả tao. Rồi họ kèn cựa với nhau: Ông trời
cuả tao lớn hơn, quan trọng hơn, tinh khiết hơn ông trời cuả mày v.v...Đây chính
là đầu mối cuả hiểm họa chiến tranh tôn giáo. Một thứ chiến tranh tàn bạo đă sát
hại khốc liệt không biết bao nhiêu sinh linh nhân loại trên mặt điạ cầu, kể từ
khi bắt đầu có tôn giáo ra đời cho đến nay. Thậm chí bây giờ, khi tôi viết những
ḍng chữ này, các cuộc chiến tranh tôn giáo ấy vẫn đang diễn ra đẫm máu, một
cách diễu cợt tại Palestine, ngay thánh điạ Jérusalem. Theo người Do Thái chữ
Jérusalem có nghĩa:thành phố hoà b́nh! Ôi mỉa mai thay hai chữ hoà b́nh!
Thực ra, chuyện xung đột tư tưởng về ông trời cuả mày ông trời của tao, chẳng
phải măi đến ngày nay mới diễn ra ở Libanon, Bắc Ái Nhĩ Lan, Đông Timor (Nam
Dương), Ấn Độ và Tây Hồi (Pakistan), Bangladesh, Phi Châu, ở Nam Tư Lạp Phu
(Yougoslavie) giữa dân Serbe với các sắc dân Croate, dân Bảo Gia Lợi (Bulgarie),
Nga Sô với Tjetchene, Do Thái và Palestine..., mà nó đă nhiều phen gây nên thảm
cảnh đổ máu ngay từ đầu đệ nhất thiên niên kỷ. Lắm khi ngay cả trong giới tín đồ
cùng một tôn giáo, như trường hợp đáng kể sau đây:
Vào thế kỷ thứ II sau Thiên Chúa. Sử chép, lúc bấy giờ có một kẻ tên Marcion,
tín đồ TCG thuộc khuynh hướng sùng tín ngộ đạo (gnosticisme) khởi xướng quan
điểm, cho rằng cái ông trời mà thiên hạ vẫn cầu nguyện đó không phải là một ông
trời tối cao. Bên trên ông ta c̣n có một ông trời khác, mà anh ta đă nhận ra,
quyền uy tột đỉnh hơn. Nên biết, từ thời này đă có một số tín đồ tôn giáo tin
tưởng rằng các ông trời trên thiên đàng vốn lồng vào nhau theo kiểu như mấy con
búp bê Nga. Những ông trời lớn nhất phủ bên ngoài những ông trời nhỏ hơn. Ông
trời nào nhỏ nhất nằm trong cùng. Quan niệm này đă khơi động lên chủ trương
lưỡng thần giáo (bithéisme) trong hàng ngũ các giới tín đồ Thiên Chúa Giáo,
thuộc cả hai khuynh hướng sùng tín ngộ đạo và tín ngưỡng thông thường, vốn đă
từng xâu xé nhau kịch liệt trong một thời gian dài. Kết quả cuối cùng cuả cuộc
tranh biện, giằng co về quan niệm có một hay nhiều ông trời đă khiến cho phe tín
đồ sùng tín ngộ đạo (gnosticisme) bị tàn sát dă man. Một số ít người thoát nạn,
sống sót đă phải phân tán mỏng, t́m đường đào tẩu, đến những phương trời xa, mai
danh ẩn tích, song vẫn tiếp tục tôn thờ chủ nghĩa lưỡng thần giáo trong bí mật
tuyệt đối...
Buồn cười nhất là mỗi ông trời đă sản xuất ra con người bằng một cách khác nhau,
song tựu trung đều rất thô sơ, vụng dại, chẳng khác nào tṛ chơi nặn đất, nhồi
bánh cuả bọn trẻ con chơi bẩn, thường hay bị các bà mẹ la rầy quở mắng và cấm
cản. Những hành vi ấy cuả các ông trời đă tỏ ra hoàn toàn phản nghịch với thuyết
Thượng Đế toàn năng (omnipotent) và cùng khắp (omniprésent), cực kỳ huyền bí,
linh nghiệm, đă nêu trong các quyển kinh thánh. Tôi không hiểu các nhà tôn giáo,
các vị thức giả uyên bác thần học nghĩ sao về chuyện này. Một ông trời mà mọi
người trên thế gian này, từ trẻ đến già, từ bậc trí giả tài cao học rộng chí đến
kẻ cùng đinh dốt nát, đều kính cẩn tin tưởng. Mỗi khi gặp nạn, bị bịnh hoạn nguy
kịch, hay có điều ǵ bất như ư...những người ấy đều vội vàng qùi sụp xuống, gục
đầu, nhắm nghiền đôi mắt, suưt soa, th́ thào khấn vái cầu xin ông trời ra tay
cứu độ, chẳng dè ông ta lại chỉ có khả năng sáng tạo không hơn một đứa trẻ
nghịch đất, một anh thợ vụng làm bánh nướng, đến nỗi phải mất ba mẻ mới tạo ra
được một sản phẩm đắc ư!
Tôi nghĩ các thuyết trên đều chỉ do óc tưởng tượng, bịa đặt nông cạn cuả con
người, đặc biệt là Do Thái, mà thôi. Chớ ông trời, giả thiết nếu có thật, cũng
chẳng ăn thua ǵ vào đó. Bởi căn cứ trên những khám phá khoa học hiện đại, ngày
nay ai cũng biết, trái đất và con người cùng vạn vật, núi sông...đă hiện hữu
trong vũ trụ từ thuở Hồng Hoang (Big Bang) hàng triệu triệu năm về trước. Vậy,
nếu quả thật trái đất này và mọi sinh vật trên mặt điạ cầu đều đă do bàn tay cuả
một ông trời nào đó tạo ra, chắc chắn ông trời ấy phải xuất hiện trước đó ít
lâu, hay cùng lắm cũng phải hiện diện đồng thời. Nhưng ngặt nỗi các nhà thông
thái tôn giáo lại chỉ mới xuất đầu lộ diện có vài ngàn năm nay mà thôi. Như thế,
các vị này, cũng chẳng khác ǵ mọi thường nhân (như tôi, như bạn) không hề có
dịp tiếp xúc với đấng toàn năng lần nào. Vả chăng, theo lời Khổng Tử , một nhà
hiền triết lừng danh Á Đông, đă dạy:Ông trời không biết nói!. Và triết gia
Nietzsche (1844-1900)[ người Đức, cha đẻ thuyết siêu nhân, với các tác phẩm quan
trọng như: Also sprach Zarathoustra( Zarathoustra đă phán như thế này); Jenseits
von gut und bose (Bên kia cái phải và cái quấy) đă tuyên bố :Thượng Đế đă chết!.
C̣n nhà khoa học Laplace , khi tŕnh bày quan niệm về vũ trụ trước Napoléon, nhà
vua hỏi: Tại sao không nói đến ông trời?. Laplace đáp: Tâu hoàng thượng, tôi
không cần đến gỉa thuyết ấy !... Nên chúng ta có quyền nghi ngờ những điều các
nhà tôn giáo và thần học đă kể về ông trời .
Đến đây, bạn có thể đặt câu hỏi: Đă không chấp nhận thuyết ông trời đẻ ra con
người, vậy con người do đâu mà ra? Thủy tổ con người là ai ? |