Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng Trung Quốc chỉ là ngôn ngữ thứ hai.
Với khoảng 8 triệu người, họ đă tạo nên một vùng dân cư đông đúc, một khu
tự trị riêng ở vùng Tân Cương. Họ sinh sống tập trung ở dăy núi phía Nam,
nơi có ốc đảo Tarim Basin. Đối với người Uyghur th́ đó là thủ phủ của khu
tự trị.
Cái tên Uyghur theo tiếng Thổ Nhĩ Kỳ là "united' or 'allied". Những người
dân Thổ Nhĩ Kỳ du canh du cư, sống nay đây mai đó trong quá tŕnh chuyển
dịch của ḿnh đă đặt chân đến nơi đây và nhận ra rằng đó chính là mảnh đất
lư tưởng dành cho họ. Nhờ quyết định đó mà đă h́nh thành nên dân tộc
Uyghur.
Đầu tiên người Uyghur là những cư dân sinh sống ở những vùng nông thôn
phía Nam hồ Baykal ngày nay. Theo một truyền thuyết có từ bao đời nay, đầu
tiên nhóm cư dân đó chỉ có khoảng 10 người, v́ không thể sống ḥa thuận
với bầy sói hoang, họ đă tập trung nhau lại rời bỏ nơi ḿnh đang sống để
đi t́m một miền đất hứa. Đó chính là khởi nguồn của một bộ lạc hoang dă người
Thổ Nhĩ Kỳ mà sau này trở thành người Uyghur.
Người
Uyguhr sinh sống ở vùng Tân Cương rộng lớn của Trung Quốc, ngôn ngữ giao
tiếp chủ yếu là
Vào thế kỷ thứ 6, bộ lạc người Thổ Nhĩ Kỳ ấy sinh sống ở vùng núi hoang sơ
Altai, sang đến thế kỷ thứ 7, bộ lạc đó phát triển hơn nhiều, sau đó th́
họ tách ra một bộ phận di cư sang phương Đông và một bộ phận c̣n lại di
chuyển về phía Tây. Bộ phận di cư sang phương Đông sinh sống chủ yếu ở
Trung Quốc. Có thể nói đây là bước ngoặt vĩ đại của tộc người này, bởi sau
đó họ đă phát triển đến mức có thể sáng lập cho ḿnh một đế chế riêng vào
thế kỷ thứ 8, trên chính mảnh đất của người Trung Quốc bấy giờ. Và cũng từ
đó, những người dân di cư này được gọi bằng một cái tên là "Người Uyghur".
Người Uyghur có dân số đông gấp đôi người Tạng của Trung Quốc, v́ thế mà
họ luôn t́m mọi cách để thống nhất người Tạng sinh sống tại vùng đất này
(đó là khoảng thời gian từ năm 755 - 763). Sang đến thế kỷ thứ 9, trong
nội bộ người Uyghur có diễn ra một sự phân chia lớn, một vài người sống định
cư ở Hexi Corridor đă thành lập một đế chế riêng cho ḿnh tại Dunhuang và
Zhangye, một số khác th́ rời phía Nam vùng núi Heavenly, ngôn ngữ mà họ sử
dụng là của người châu Âu.
Đến thế kỷ 10, người Uyghur đă mang nặng tư tưởng chính trị riêng, điều đó
được phản ánh rơ qua sự phát triển về kinh tế, văn hoá của người dân. Họ
tự làm ra bảng chữ cái riêng cho ḿnh và đó chính là nền tảng cho ngôn ngữ
Mông Cổ sau này. Mong muốn đế chế của ḿnh được công nhận trước kia đă
ngay lập tức bị giấc mơ thống nhất Trung Quốc dập tắt.
Măi cho đến sau này, có thể nói là từ khi bắt đầu bước sang thế kỷ 19, người
Uyghur vẫn không ngừng dồn hết tâm trí của ḿnh vào công việc thiết lập
một chính quyền tự chủ riêng. Mặt trái của những cuộc xâm lược, áp bức mà
triều đại phong kiến Trung Quốc thống trị lúc đó áp dụng với các dân tộc
ngoại lai đă làm nên tư tưởng ấy của họ. Đó chính là động lực thúc đẩy ư
chí thống nhất đất nước của người Uyghur, và cuối cùng th́ ước mơ đó của
họ đă thành hiện thực, ngày 1/10/1955 khu tự trị Tân Cương của người
Uyghur đă được thiết lập.
Giờ đây, nhắc tới người Uyghur ở Tân Cương (Trung Quốc) là người ta nhớ
ngay tới một dân tộc lạ kỳ, một dân tộc có một sức sống mănh liệt, và hơn
thế nữa đó c̣n là dân tộc có truyền thống văn hoá hết sức độc đáo và hấp
dẫn. Ngay trong cuộc sống hàng ngày, người dân Uyghur cũng vẫn giữ được
nét truyền thống của ḿnh. Ngay như việc làm nhà để ở họ vẫn sử dụng kiểu
gạch vuông, bởi họ cho rằng nó sẽ tạo cảm giác ấm cúng và rộng răi, nhất
là vào mùa đông. Giường ngủ của người Uyghur thường được trải những lớp
vải nhiều màu sắc. Những dụng cụ thiết yếu trong gia đ́nh và đồ làm bếp
thường được để nơi góc nhà, hốc tường thuận tiện. Trong vườn nhà của người
Uyghur thường trồng dưa tây và thóc lúa, có nhiều gia đ́nh c̣n trồng nho.
Bao giờ người Uyghur cũng dành riêng một khoảng đất nho nhỏ ở sân trong
nhà ḿnh để làm nơi nghỉ ngơi, giải trí sau một ngày làm việc mệt mỏi.
Lễ hội của người Uyghur cũng rất đặc biệt, lễ hội Kashgar là một ví dụ
điển h́nh nhất. Khi mặt trời thức dậy, toả những ánh b́nh minh trong lành
(vào khoảng 6 giờ sáng), đă có hàng ngh́n người tập trung chờ đợi lễ hội
khai cuộc. Trong lễ hội, hấp dẫn nhất là những điệu nhảy, chúng lôi cuốn
tất cả mọi người, bởi vậy các điệu nhảy luôn kéo dài suốt buổi lễ. Người
lớn th́ đánh trống, thổi tù và (loại nhạc cụ này được làm từ sừng trâu,
sừng ḅ), c̣n trẻ con th́ thường tập trung nhau lại thành một nhóm rồi đi
chơi khắp đường phố. Và đây cũng là dịp mọi người đến với lễ hội khoe
những bộ trang phục cũng đặc biệt không kém những điệu nhảy truyền thống.
Đặc trưng nhất trong bản sắc vǎn hóa của người Uyghur có lẽ là lễ cưới
truyền thống, khách mời dự lễ cưới thường nhảy theo những điệu nhạc trước
khi người tộc trưởng đọc kinh Koran. Chỉ măi những nǎm gần đây phong tục
truyền thống của người Uyghur mới có sự thay đổi chút ít theo tập tục của
người Trung Quốc. Ngay như chuyện duy tŕ ṇi giống, trước kia người Uygur
vẫn giữ thói quen sống theo kiểu quần hôn, nay th́ khác, người Uyghur đă
tiếp thu phần nào sự tiến bộ của xă hội bên ngoài bằng cách họ cũng đă quy
định mỗi gia đ́nh một vợ một chông và chỉ có từ một đến hai con mà thôi.
Trang phục của người Uyghur là một sự tổng hợp vô cùng độc đáo, chọn lọc
từ những điểm đặc trưng nhất trong trang phục truyền thống của ba thành
phố Turpan, Kucha và Kashgar. Đàn ông thường mặc một thứ quần dài có chiều
rộng gấp ba lần kiểu quần thông thường. Phần vải thừa được dắt gọn gàng
trên phần eo của người mặc, đi kèm với chiếc quần ấy là đôi giầy được làm
từ da thuộc của động vật.
Phụ nữ Uyghur th́ mặc áo dài suôn rộng không chiết eo và có nhiều màu sắc
chủ yếu làm từ vải thô, sau này th́ chúng được làm từ tơ lụa. Bộ trang
phục này c̣n có thêm những dải lụa màu nâu đậm trang trí bên ngoài, những
chiếc váy dài kiểu này rất thanh lịch và tao nhă.
Về trang sức và trang điểm, phụ nữ Uyghur hay dùng khǎn trên đó có thêu
rất nhiều hoa vǎn với vô số màu sắc để quấn quanh tóc ḿnh. Trang sức của
người Uyghur rất độc đáo, mỗi địa phương nơi người Uyghur sinh sống lại có
một kiểu trang sức khác nhau. Phụ nữ Uyghur thường ưa thích mặc những
trang phục và trang sức có màu đỏ, xanh hoặc trắng ngà. Không giống với
người Trung Quốc, phụ nữ Uyghur thường trang điểm sao cho đôi mắt của ḿnh
có màu nâu, đôi khi việc trang điểm cho mắt đơn giản đến mức chỉ cần vẽ
một đường viền nhỏ xung quanh là được. Phụ nữ để tóc dài và thường tết gọn
gàng, trong đám cưới truyền thống người con gái thường tết tóc ḿnh thành
10 bím tóc, hoặc có thể nhiều hơn thế, bởi theo quan niệm của họ trang
điểm như vậy sẽ khiến người ta gặp nhiều may mắn hơn.
Trong giao tiếp hàng ngày, người Uyghur vẫn giữ được nhiều phong tục độc
đáo. Đáng chú ư nhất là trước khi bắt đầu câu chuyện th́ chủ nhà luôn là
người rót nước cho khách rửa qua hai bàn tay của ḿnh bằng một chiếc b́nh
nhỏ, việc rót nước cho khách cũng được làm một cách nhẹ nhàng. Trong khi
nói chuyện phải luôn giữ theo phép giao tiếp truyền thống là tế nhị, hoà
nhă với mọi người trong gia đ́nh, người đàn ông lớn tuổi trong gia đ́nh
bao giờ cũng là người quan trọng nhất.
Người Uyghur có một kho tàng những câu chuyện cổ, âm nhạc và rất nhiều
điệu nhảy truyền thống, những hiện vật c̣n giữ được đến bây giờ là những
sợi dây đàn ghi ta, đàn mǎngđơluyn và những bộ trống lục lạc (trống nhỏ có
gắn những ṿng kim loại kêu xủng xoẻng ở vành). Về múa truyền thống, người
Uyghur có những điệu nhảy vô cùng uyển chuyển, nhịp nhàng trên nền nhạc
dân gian với lời ca diễn tả cảnh tha hương, cảnh đói nghèo, t́nh yêu con
người... Trong nền văn hoá độc đáo của người Uyghur người ta c̣n t́m thấy
những bùa chú có xác định cả niên đại (thế kỷ 8), trong đó có kể tên 400
loài thảo mộc và hơn 200 mẫu pha chế...
Đó chính là những nét độc đáo trong bản sắc vǎn hoá của người Uygur, nó đă
chứng minh một quá tŕnh h́nh thành và phát triển của một tộc người sinh
sống trên vùng đất Tân Cương rộng lớn của Trung Quốc. Nhưng hơn hết, với
những nét văn hoá đặc trưng này, người Uygur đă được cả thế giới biết đến
như một dân tộc có truyền thống phát triển lâu đời, bỏ qua khoảng thời
gian dài chưa được công nhận. |