Thánh địa Jérusalem: Những điều ít biết

 

 

"Trong mười thước đo cái đẹp được ban tặng cho thế giới, Jérusalem sở hữu chín, cái thứ mười thuộc về phần c̣n lại của thế giới".

Từ Urushalim tới Kinh thành David

Vào giữa thiên kỷ thứ IV trước Công nguyên (CN), trên sườn núi Sion thuộc Jordanie mọc lên một trấn nhỏ xen giữa nhiều thành phố nằm rải rác tô điểm cho vùng đất tươi đẹp, đó là Jérusalem. Trấn này bé nhỏ đến nỗi măi đến thế kỷ XIX trước CN nó mới được nhắc đến trong một vǎn bản của Ai Cập. Và nó bặt tăm suốt 500 năm sau đó.

Người ta t́m thấy sáu văn tự cổ viết vào thế kỷ XIV trước CN do một viên quan cai trị thành phố có tên là Abdi Heba gửi cho đức vua trị v́, trong đó Jérusalem được nói đến rơ ràng hơn.

Abdi Heba, một sủng thần của Pharaon, không hiểu sao quân Ai Cập rút khỏi Urushalim - tên của Jérusalem thời đó, c̣n gọi là Shalim, tức Tịch Dương, biểu tượng của trọn vẹn và b́nh yên.

Abdi cũng không hiểu sao bộ lạc du mục Hapirou (quân cát bụi) lại tấn công thành phố. "Hapirou là cách gọi dễ duôi các sắc dân du mục", Pierre Bordreuil, nhà khảo cứu Trường Đại học France, nói "Hapirou gọi mối liên hệ ngôn ngữ với Hebreu chỉ tổ tiên người Do Thái.

Từ rất lâu, các chuyên gia Kinh thánh cho rằng những ghi chép về người Hébreu trong các văn tự cổ đó là chứng cứ về các cuộc chinh phục của Josué hay của David. Điều ǵ xảy ra với bộ tộc có tên là Hapiro (hay Hébreu) và với Urushalim ? Họ đă chiếm thành phố này hay chiếm những vùng phụ cận ? Bí ẩn bao trùm.

Những giai đoạn sau đó, khảo cổ học cũng không thể giải thích được điều ǵ thực sự xảy ra ở Jérusalem.

Vào cuối thế kỷ 19, những nhà khảo cổ học Anglo-saxons như Robinsons, Allbright, rồi từ năm 1967, những nhà khảo cổ người Israel - Mazar hay Shilo với kinh Cựu ước làm kim chỉ nam, ra sức khai quật với hy vọng phát hiện ra kinh đô lớn của David và của Salomon.

Nhưng khảo cổ học theo Kinh thánh có đáng tin cậy về mặt khoa học không ? Cổ sử Thiên Chúa giáo và Do Thái giáo trước t́nh trạng thiếu di vật như thế có khách quan không ? Tất cả chứng tích, cổ vật t́m thấy đều ít thuyết phục, thiếu các văn tự cổ, c̣n những phiến đá tự bao đời nay vẫn câm lặng. Chỉ có một sự thật gây thất vọng: Jérusalem một thời tráng lệ dường như là một trấn nhỏ.

Khảo cứu Kinh Cựu ước

Các nhà khảo cổ học miễn cưỡng cho rằng cách duy nhất để dựng lại lịch sử Jérusalem giữa thế kỷ XIII và VIII trước CN là đọc lại và phân tích Kinh Cựu ước.

Theo biên niên trong Kinh thánh, Jérusalem xuất hiện lần đầu trong hệ tác phẩm Abraham dưới tên Salem, mượn theo tên của đức Chúa Shalim. Tại Salem một vị tư tế Melkitsédeq (nghĩa là "đức vua chính đáng của tôi") phụng sụ đức chúa tối cao El Elyon.

Những người biên soạn hệ tác phẩm này dường như đă giữ lại một kư ức, chắc chắn là đă biến dạng, về ư nghĩa của việc thờ phụng Shalim. Ḍng truyền thống này đă không bị gián đoạn: Jérusalem chắc là có một tầm quan trọng đối với một số trong các tổ phụ người Do Thái, số ấy có thể là người Hébreu, người Hittites hay một dân tộc nào đó trong vùng.

Tuy nhiên, sụ khẳng định nêu trên không thống nhất ở chỗ Israel ít xa lạ với vùng này hơn nhiều so với những ǵ được ghi trong Kinh thánh.Theo Kinh thánh, Abraham gốc gác vùng Lưỡng Hà, c̣n những khảo cứu đưa ra những kết luận khác, bị bài xích bởi cả những người Do Thái giáo thuần thành, cho rằng Kinh thánh bất khả xâm phạm, và những người Arập Palestine theo chủ nghĩa dân tộc.

Dân Israel lần đầu được nhắc đến trên một bia mộ Ai Cập thời Pharaon Merneptan (1208 trước CN), tiếp theo sau nhiều bộ tộc khác trong đó có người Hittites, và tại một vùng đất tên Kinahou, có thể là Canaan ngày nay.

Trong những năm 60, các nhà khảo cổ cho rằng họ xác định được trên cao nguyên Judée, nguyên mẫu của những ngôi nhà Israel bốn gian xây vào kỳ đồ sắt. Thực ra, không thể phân biệt chúng với những ngôi nhà đồng bằng. Kể cả đồ đất nung dùng trong nhà.

Dân Israel cũng có nền văn hoá giống người Canaan. Có giả thiết là Israel chính là những người Canaan bỏ trốn hoặc chống lại sự đô hộ của Ai Cập, đến náu tại những vùng núi cao.

Giả thuyết khác cho rằng người Israel là dân du mục Transjordanie cùng ḍng máu Amorite, thậm chí có thể là hậu duệ của người Hyksôs - một dân tộc thống trị vùng châu thổ sông Nil và Thế kỷ XVII trước CN. Người Israel nói tiếng Hébreu thuộc nhóm ngữ Do Thái phương Tây, thứ tiếng gần gũi với những phương ngữ khác của Canaan.

Một câu hỏi nữa: có phải Abraham từ Sumer đến ? Có thể khẳng định là dân tộc Israel đă tồn tại ngay từ thế kỷ XIII trước CN, họ nói thổ ngữ Hébreu, nhưng vô phương xác định gốc gác của họ.

Kinh Cựu ước ghi rơ về Jérusalem sau cuộc trốn khỏi Ai Cập, vượt sa mạc và những cuộc chinh phục của Josué. Sau khi định cư tại Đất Hứa, 12 chi tộc vẫn do những phán quan cai trị, đă yêu cầu tiên tri Samuel t́m cho họ một vị vua. Sau là vua đầu tiên, sau đó là David, người chinh phụ thành Jébus của người Jébus và cải danh thành Jérusalem.

Sau chiến tranh "Sáu ngày", Kinh thành David - đối tượng của nhiều cuộc khai quật - đă được chứng minh tồn tại vào khoảng năm 1.000 trước CN. Nhiều vết tích cho thấy đă có nhiều công tŕnh quan trọng từ trước thời được cho là của David: các công sự cổ, các hệ thống thủy lợi... nhưng những khám phá đó cũng chưa đủ để kết luận Jérusalem của David chính là nơi thủ đô của liên bang 12 chi tộc Israel.

Một số nhà nghiên cứu khoa học lịch sử đă căn cứ vào hai bia chữ từ thế kỷ IV trước CN, phủ nhận những phát hiện của khảo cổ học. Tấm bia nổi tiếng nhất được t́m thấy ở TelDan (phía bắc Israel) có ghi lại đôi điều về nhà David, tức là vương quốc của ông.

Các văn tự cổ c̣n ghi lại (cái tên dường như có gốc từ Shalim Salomon, con trai David, đă cho xây một quần thể lâu đài và đền thờ hoàng tộc trên đồi Jérusalem trên nền ngôi đền Shalim cũ để thờ một vị thần mới là YHVH (Yahvé).

Salomon luôn được coi là người sáng lập đế chế và là nhà xây dựng lớn dù khảo cổ học chưa thể chứng minh. Những ghi chép sử học đầu tiên về vương triều Do Thái liên quan đến nhà nước phân liệt phía bắc đều nói đến Israel. Nhà nước non trẻ này được tách khỏi chi tộc Juda và Jérusalem sau cuộc xung đột chi tộc khi vua Salomon chết - được cho là vào năm 928 trước CN. Hai nhà nước này có điểm chung duy nhất là cùng thờ Yahvé, nhưng Israel được biết đến nhiều hơn. Theo các tài liệu lưu trữ ở Ninive Israel liên kết với Syrie chống lại cuộc tấn công của quân Assyrie.

Vào năm 701 trước CN, liên minh này tan vỡ, lo sợ trước cuộc xâm lăng của quâa Assyrie, dân Israel di tản về định cư tại Juda, làm thay đổi bộ mặt thị trấn miền núi phía Tây Jérusalem cách xa các thương lộ chính này.

Để bảo vệ khu định cư mới này, đức vua Ezéchias - trị v́ từ năm 727 - 698 trước CN, cho xây thành lũy, hệ thống dẫn nước ngầm đă được t́m thấy vết tích. So với những thành phố lân cận, Jérusa]em rộng 60 ha, nhỏ bé so với Ninive - 720 ha, thủ đô Assyrie. Có thể v́ thế mà khi tàn phá Juda và bao vây Jérusalem, quân Assyrie không thèm chiếm giữ.

Sau đó, phe thân Ai Cập ra đời tại Jérusalem là mũi nhọn đối đầu với Babylone từ năm 597 trước CN. Mười năm sau, xung đột trở nên gay gắt, Nabuchodonosor II, vua Babylone, chiếm Jérusalem, phá đền thờ và lưu đày giới thượng lưu đến vùng Lưỡng Hà. Sau đó nữa là sự phát triển chậm chạp của Jérusalem. Chậm chạp ít nhiều là do những mâu thuẫn vẫn c̣n đó.