Để làm một
bộ kimono "chuẩn" cần khoảng 4.500 lọn tơ và người thợ dệt phải bỏ ra chí
ít là 50 ngày miệt mài lao động trên guồng sợi mới tạo ra thứ vải thích
hợp "không lặp lại" được.
Trong tiếng Nhật, "kimono" đơn giản chỉ là "quần áo" với ư nghĩa rộng của
từ này, hay đúng hơn là "quốc phục" cổ truyền, khi so với thứ trang phục
của người Âu mà người Nhật gọi là "iofuku".
Đó là kiểu áo choàng với ống tay rộng, vắt chéo trước ngực từ phải qua
trái (ngược lại từ trái qua phải chỉ dành cho người vừa quá cố) và được
thắt buộc lại ngang lưng eo. Kimono của nam giới thường làm bằng chất vải
thô, màu tối và ít hoa vǎn, c̣n kimono phụ nữ th́ đa dạng về màu sắc, chất
liệu vải cũng như lối trang trí - tùy theo trạng thái hay công việc tương
ứng.
Cội nguồn cǎn bản của thứ trang phục cổ truyền, original và truyền thống
Nhật Bản này thực chất là sự pha trộn các kiểu ǎn mặc của người Trung Hoa,
người Triều Tiên và người Mông Cổ - được đem áp dụng cho phù hợp với điều
kiện khí hậu và lối sống trên quần đảo mặt trời mọc. Và đây cũng là một
trong những tính chất tiêu biểu của xứ Phù Tang: những ưu điểm vượt trội
từ các sáng tạo bên ngoài đều được "tu bổ", thêm vào nhiều "nhân tố mới"
và dần trở thành một phần không thể tách rời của truyền thống Nhật. Nhiều
di chỉ khảo cổ ở Nhật cho thấy phục sức của họ cũng na ná như người Triều
Tiên và người Trung Hoa cổ.
Vào thế kỷ VII trong xă hội Nhật có sự thay đổi lớn mang tính bước ngoặt:
sự thâm nhập của đạo Phật từ Hoa lục, song song là h́nh mẫu thể chế của
các "thiên tử" Trung Quốc. Theo gương các hoàng đế Trung Hoa, thái tử Nhật
Siotoku (573 - 628) áp dụng nghiêm ngặt quy chế trang phục cho giới quan
lại - tiền thân của kimono bây giờ. Sang nửa cuối thế kỷ VII, người Trung
Quốc chia phục sức ra làm 3 loại: đại lễ, lễ hội và thường nhật. Người
Nhật cũng noi theo. Phụ nữ Nhật thay v́ lối áo sơ-mi cổ truyền đă chuyển
qua kiểu áo choàng tay rộng. Váy cũng được kéo dài ra ngang với mắt cá
chân... Trong suốt 4 thế kỷ kế tiếp (thế kỷ VIII - XII) người Nhật hầu như
áp dụng mọi "nguyên mẫu" Trung Hoa, kể cả trong trang phục.
Cùng với sự cầm quyền của giới tướng lĩnh tại Nhật vào đầu thế kỷ XIII,
thứ phục sức hợp với binh đạo được thực thi triệt để, mọi thứ vải "thừa" đều
bị cắt bỏ. Rồi giao lưu buôn bán với bên ngoài được xúc tiến, h́nh thành
tầng lớp dân cư đô thị mới trong thế kỷ XVII. Chính trang phục của lớp người
này đă trở thành kimono "truyền thống" Nhật. Lúc đầu, người ta cấm các thị
dân không được mặc kimono bằng thứ vải đắt tiền, màu sắc rực rỡ. Tới thế
kỷ XIX, cùng với sự thâm nhập của vǎn hóa Âu châu vào Nhật, người Nhật bắt
đầu khoái những kiểu trang phục "từ bên kia đại dương". "Iofuku" là thứ
mặc ra đường tiện lợi hàng ngày, c̣n "kimono" dành cho các dịp trọng đại -
biến thành thứ phục sức quư giá.
Một bộ kimono đẹp thường rất đắt, với thứ vải dệt theo lối thủ công và được
khâu tay. Người ta se lẫn cả những sợi "chỉ" bằng bạc hoặc vàng thật, c̣n
hoa vǎn là bụi vàng và bạc nguyên chất. Chỉ có những nghệ nhân mới dám
nhận làm các bộ kimono đại lé. Cách xếp đặt thớ vải cùng lối bài trí hoa
vǎn phải tạo được ấn tượng: đó không chỉ là kiểu quần áo thuần túy mà c̣n
là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ nữa. Những bộ kimono độc đáo chiếm vị
trí trang trọng trong các viện bảo tàng, tại các tủ quần áo gia đ́nh và được
lưu truyền như "của gia bảo" từ đời này qua đời khác. Chỉ có những người
Nhật cực giàu, hay giới nghệ sĩ nổi tiếng của các nhà hát Noo hoặc Kabuki
- nơi diễn xuất với kimono là điều bắt buộc - mới thường xuyên khoác những
bộ kimono đại lễ trên người.
Giới cô dâu Nhật bây giờ thường thuê những bộ kimono trong các cửa hàng
đặc biệt, nơi có các chuyên gia khuyên họ cách "mặc và chuyển động" với
kimono sao cho đúng. Dịch vụ này vào cỡ 800USD mỗi lần và thường là khoản
chi phí cao nhất của các đám cưới. Với các đám giàu có, cô dâu cũng như
chú rể phải thay ít nhất là 2 bộ kimono đại lễ.
Những bộ kimono lễ hội thường được may ráp bằng các khuôn vải "chuẩn" nên
có kích cỡ như nhau. Ngay cả với bộ kimono đại lễ may từ hồi nhỏ người phụ
nữ Nhật vẫn có thể mặc được suốt đời, thậm chí c̣n để lại cho con gái hoặc
cháu gái nữa - chỉ cần khâu lên hay hạ xuống tùy theo chiều cao tương ứng
của người mặc. Với loại kimono mặc ở nhà, người ta may theo kích thước số
đo cụ thể. Vải lót của kimono luôn tương phản với vải nền: nếu như kimono
màu xanh, vải lót sẽ là màu đỏ, hay kimono màu trắng, vải lót sẽ có màu
xanh hoặc đỏ...
Kimono được bảo quản theo cách đặc biệt: không giặt mà chỉ gột rửa những
chỗ bẩn. Nếu như có giặt, cũng chỉ giặt từng phần một và sấy khô ngay tức
th́. Kimono được cất giữ trong những tấm giấy đặc biệt, chống ẩm và luôn
giữ được sắc tươi. |