Năm 1913: Giải Nobel Văn học cho nhà thơ, nhà văn kiêm nhạc sĩ
người Ấn Độ, Rabindranath Tagore (ảnh). Ông sinh ở Calcuta năm
1861 trong một gia đ́nh quí tộc xuất sắc theo đạo Hindu. Từ nhỏ ông được
sang châu Âu học tập, sau đó quay lại Ấn Độ vào học trường Đại học Tổng
hợp Bengan. Tập ''Thơ Dâng'' (Offerings from the heart) đă đưa ông lên vị
trí vinh quang với lời đánh giá của Hội đồng Nobel: ''Qua những vần thơ
đẹp lộng lẫy, tươi tắn, xúc cảm thẳm sâu, cùng bút pháp đa dạng, (ông) đă
nói lên được những suy tưởng thi ca của ḿnh, thể hiện bằng ngôn ngữ tiếng
Anh của chính ḿnh, như một bộ phận của văn học phương Tây''. Năm 1915,
ông được Hoàng gia Anh phong tước Hiệp sĩ. Ông nổi tiếng khắp thế giới như
một nhà triết học, một nhà giáo dục, một thi sĩ. Nhân dân Ấn Độ tôn ông như
một vị Thánh. Năm 1913, giải thưởng văn học cao quí nhất này đă trao cho
một thi sĩ có ''những vần thơ đẹp lộng lẫy'', có ai ngờ một năm sau
(1914), cuộc đại chiến thế giới I đẫm máu nổ ra...
Năm 1966: Giải Nobel Văn học trao cho hai nhà văn, Shamuel Yosef
Agnon (Israel) và Nelly Sachs (Thuỵ Điển). Giải thưởng trao cho S.Y.
Agnon với lời đánh giá: ''V́ nghệ thuật văn xuôi sâu sắc cùng những
mô-típ lấy từ cuộc sống của dân tộc Do Thái''.
Được mệnh danh là ''con người mang thiên tài bền vững'' và ''một trong
những người kể truyện vĩ đại của thời đại chúng ta'', Agnon nằm trong số
những tác giả Do Thái được dịch rộng răi nhất (18 thứ tiếng), được ngợi
khen dạt dào nhất. Văn phong và ngôn ngữ độc đáo của ông đă gây ảnh hưởng
cho các thế hệ nhà văn Do Thái kế tiếp. Phần lớn tác phẩm của ông đều cố
gắng đoạt lại cuộc sống cũng như truyền thống của một thời đă qua, nhưng
chúng không đơn thuần là một hành động mang tính níu kéo. Tác phẩm của
Agnon đề cập tới những vấn đề tâm lư và triết học quan trọng vào bậc nhất
của thế hệ ông. Tờ ''Thời báo New York'' viết: ''Thông qua những phong
cách hiện thực và siêu hiện thực, Agnon đă biến đổi ra ngôn ngữ của ḿnh
những căng thẳng trong sự mất mát tính trong sáng của con người hiện đại,
sự rối loạn tinh thần khi phải sống xa nhà, ĺa quê hương, và mất niềm
tin''. Suốt cuộc đời làm một người Do Thái nhạy cảm, ông luôn có khả
năng nắm bắt được ''nỗi tuyệt vọng và cảnh hoang lạnh tinh thần'' của một
thế giới đang đứng bên ngưỡng cửa của thời đại mới. Được ca ngợi v́ ''vẻ
đẹp và sự nhạy cảm phi thường'', v́ ''sự giàu có và thẳm sâu'' trong các
tác phẩm, sự đóng góp của ông làm hồi sinh một ngôn ngữ, và nhờ thế ngôn
ngữ đó nảy sinh cho tất cả nền văn chương Do Thái kế tiếp. Các cuốn tiểu
thuyết ''Bức trướng cô dâu" (The Bridal Canopy), ''Một câu chuyện giản
dị'' (A simple story), ''Vị khách dêm tối'' (A guest for the night), ''Chỉ
có ngày hôm qua'' (Only yesterday), ''Trong nhà kho của ông Lublin'' (In
Mr.Lublin's Store) là những cột mốc lớn trên đường đi của Agnon. Ông
sinh năm 1888 ở Galicia, mất năm 1970 ở Jerusalem
Năm 1968: Giải Nobel văn học trao cho nhà văn Nhật Yasunari
Kawabata với lời đánh giá: ''Nghệ thuật kể chuyện tinh tế cùng sự
nhạy cảm cao độ, (ông) đă thể hiện được nét tinh tuư trong tâm hồn nhật
Bản''. Ông sinh năm 1899. Ngay từ khi c̣n là một đứa trẻ, ông đă phải
chứng kiến rất nhiều lần cái chết, ông mất nhiều anh em họ hàng, nhiều đến
nỗi ông được biết đến như một ''ông chủ tang lễ''. Bạn đọc sẽ nhận thấy
trong tác phẩm của ông có những chi tiết như các tấm gương, nhưng cái mặt
nạ, khát vọng trinh trắng và nỗi mong mỏi cho một t́nh yêu, t́nh yêu ấy
nếu có thực, nó cũng liền tan biến. Trong tác phẩm Cố đô (The Old
Capitan), nghệ thuật kể chuyện mang tinh ẩn dụ có mặt khắp nơi. Một đôi
nam nữ ngồi với nhau và nói về mùa anh đào nở; hai chị em ruột sau bao
biến động gặp lại nhau, họ vừa nói chuyện vừa lắng nghe trong đêm tiếng
sấm động trên đỉnh núi... ''Người đẹp và nỗi muộn phiền'' (Beauty and
Sadness), ''Cố đô'' (The Old Capitan), ''Người đẹp say ngủ'' (House of the
Sleeping Beauties), ''Xứ tuyết'' (Snow Country), ''Ngàn cánh hạc'' (Thousand
Cranes), ''Tiếng rền của núi'' (The Sound of the Mountain)... là những
tác phẩm của ông đă được dịch ra tiếng Việt. Ông là một người ''hay lảng
tránh'' và khó nắm bắt nhất trong số các nhà văn. Ông tự sát ở Zushi, Nhật
ngày 16/4/1972. Cái chết ấy bí ẩn với chúng ta như Đời sống, là một phần
nào đó của Đời sống, và cái phần ấy cũng khó nắm bắt...
Năm 1994: Lần thứ hai giải thưởng cao quí này được trao cho một
nhà văn Nhật là Kenzaburo Oe. Theo đánh giá của hội đồng Nobel, ông là
''người, cùng với quyền năng của thi ca, đă sáng tạo ra một thế giới
mộng tưởng, nơi cuộc sống và huyền thoại thẫm đặc lại, tạo nên một bức
tranh gây bối rối cho những xác tín của con người hôm nay''. Ông được
biết đến như một nhà văn, một ''niềm tự hào của người đă chết''. Trên thế
giới ông sáng chói, và là người theo chủ nghĩa hoà b́nh qua các cuốn sách
''Ghi chép Okinawa''. Ông có một người con trai Hikari bị tật năo bẩm sinh,
nhưng cậu lại có một tâm hồn trong sáng và trái tim nồng hậu. Con trai ông
viết rất nhiều nhạc cổ điển, c̣n ông th́ viết về cuộc sống, về quá tŕnh
nuôi dưỡng con ông. Trong một cuộc phỏng vấn ở Nhật, ông nói rằng các nhà
văn Nhật hiện đại khác như Kobo Abe và Shohei Oka xứng đáng được nhận giải
Nobel, tiếc rằng họ đă từ biệt chúng ta quá sớm. ''Tôi được giải, nhưng
xin tạ ơn những tài năng của nền văn học hiện đại Nhật Bản. Tôi nghĩ ḿnh
đoạt giải chỉ bởi v́ vẫn c̣n trẻ và đang sống''. Oe là một kiểu James
Joyce của nước Nhật, một thứ ǵ gây miệt mài trong nhiều ngôn ngữ và nền
văn học, kể cả văn học Anh, Pháp, Ư và Nga. Ông có một văn phong độc đáo
và phức tạp đến mức ông được tôn kính nhiều hơn là được đọc ngay chính
trên quê hương ḿnh. ''Tiếng khóc lặng'' (The silent cry) là tác phẩm
chính, quan trọng cho đến nay của Oe.
Năm 2000: Giải Nobel Văn học đầu thế kỷ 21, và cũng là đầu thiên
niên kỷ thứ ba được trao cho một tiểu thuyết gia người Pháp gốc Trung
Quốc Cao Hành Kiện (Gao Xingjian) với tiểu thuyết Linh Sơn (đă được
dịch ra tiếng Việt). Ông khởi đầu làm nghề phiên dịch tiếng Pháp ở Hội Nhà
văn, sau sang Pháp định cư, viết kịch, vẽ tranh để sinh sống. Linh Sơn là
một cuốn tiểu thuyết vừa gần gũi lại vừa xa lạ với truyền thống phương Đông.
Về bút pháp và cấu trúc nó được viết theo phong cách Âu châu, nhưng về nội
dung và không gian truyện, nó nhuốm màu sắc phong vị Thiền. Bản chất của
cuộc đi t́m Ngọn núi thiêng là cuộc thăm ḍ ngày càng sâu, ngày càng muôn
vẻ hơn vào bản ngă, cái được h́nh thành nên bởi truyền thống, truyền thuyết,
huyền thoại, lịch sử, tư tưởng và những cái ít vai tṛ hơn như địa lư,
phong thổ... Cái khó nhất của cuộc thăm ḍ này là tính độc lập phải tuyệt
đối, điều này đă được Cao Hành Kiện phân tách một cách lạnh lùng thành tôi
và mi cùng những suy tưởng muôn vẻ. Kết thúc cuốn sách, ông đă dùng một ẩn
dụ về Thượng đế qua cặp mắt con ếch, và dường như ngọn núi ấy cũng không
hề tồn tại, nghĩa là tư tưởng về ngọn núi ấy đă không c̣n vọng khởi. Có
nhiều đánh giá trái ngược nhau về ông trong giới văn học. |