Với chức vụ chủ tịch Đảng kiêm chủ tịch nước, và với tư cách là người khai
sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, Hồ chí Minh nói chung đă tạọ ra
một cảm tưởng để người dân Việt Nam trong nước cũng như dư luận quốc tế
bên ngoài đều cho rằng Hồ chí Minh có một quyền uy chính trị tuyệt đối
trong Đảng và đối với bộ máy nhà nước. Nhưng sau này khi có những tiết lộ
động trời của cựu Đảng viên cao cấp Nguyễn văn Trấn cũng như của người hầu
cận thân tín Vũ Kỳ được tung ra, người ta thấy rơ ràng Hồ chí Minh đă bị đàn
em dưới tay như Lê Duẩn và Lê đức Thọ tước hết quyền hành, thậm chí c̣n
tạo dựng tai nạn máy bay
để giết Hồ chí Minh nữa. Thế th́ lư do nào đă đưa Hồ chí Minh đến chỗ thất
thế đến nỗi bị đàn em ăn hiếp tàn tệ nhự vậy. Phải nhớ rằng thời kỳ Hồ chí
Minh mất quyền lực là vào khoảng đầu thập niên 1960, cho nên cách lư giải
thứ nhất là Hồ chí Minh mất quyền lực sau cuộc cải cách ruộng đất tàn bạo
sai lầm. Cách lư giải thứ hai căn cứ vào một bản di chúc thật của Hồ chí
Minh được tung ra ở hải ngoại sau 1975 với chữ viết tay của Hồ chí Minh.
Chính v́ chữ viết tay mà người ta có nhiều yếu tố căn bản để tin đây là
bản di chúc thật của Hồ chí Minh. Cũng khó t́m được một kẻ nào rắn mắt chơi
tṛ chúc thư giả v́ chuyện giả chữ viết là một chuyện không dễ làm. Những
điều tiết lộ trong chúc thư này đă phần nào giải thích một cách rốt ráo lư
do tại sao Hồ chí Minh bị thất sủng và mất quyền lực trong những năm cuối
đời.
Bức chúc thư của Hồ chí Minh được báo Con Ong Tỵ Nạn tại Paris tung ra vào
năm 1981. Sau này được báo Thức Tỉnh của ông Nguyễn văn Nghi ở San Diego
đăng lại nguyên văn. ( Tiện đây xin nhắn ai c̣n giữ số báo cũ Thức Tỉnh đăng
nguyên văn Chúc thư thật của Hồ chí Minh,, xin liên lac email: duyen_hoai@yahoo.com
để trao đổi thêm). Bài viết này chỉ trích đăng phần cuối bản chúc thư mà
thôi). Nghe nói chữ viết trong bản chúc thư đă được đưa cho kiểm tự Pháp
để kiểm chứng và đă được xác nhận là đúng chữ viết của Hồ chí Minh. ( Xin
coi phần phụ lục bài viết kèm theo).
Toàn bộ bản di chúc của Hồ chí Minh được công bố có nội dung như sau,
Thời xưa ở bên Trung Quốc người ta thường nói, Con chim trước khi chết th́
tiếng kêu thương, c̣n người trước khi chết th́ lời nói phải.:
Tôi tự xét ḿnh chẳng c̣n sống bao lâu nữa, nên cố gắng viết di chúc này,
mong rằng những điều viết ra không phải là những điều sai quấy.
Vừa mới đây, Lê Duẩn có đi với Trần Quốc Hoàn tới gặp tôi, ép buộc tôi phải
viết bản di chúc theo ư muốn của họ. Tôi đă viết mà trong bụng vẫn tấm tức
vô cùng.
Nay tôi viết thêm tờ di chúc này, xin coi là chính thức. Ngoài ra tôi
không công nhận bất cứ bản di chúc nào khác. Tôi ước mong một ngày nào đó,
bản di chúc tôi viết đây sẽ được mọi người biết tới, th́ ở thế giới bên
kia tôi mới được thỏa ḷng.
Tôi vốn con nhà nghèo nhưng từ bé đă nuôi mộng đảo lộn sơn hà, và đem lại
vẻ vang cho ṇi giống, nên tôi bôn ba hải ngoại bao nhiêu năm không hề
quản ngại khó khăn, gian khổ, vào tù ra khám, chỉ mong có ngày tổ quốc ta
độc lập, giàu mạnh, dân ta hạnh phúc, tự do.
Tôi thường đọc lịch sử nước Việt Nam ta, thấy có ông Trần Thủ Độ là một
tay hào kiệt hiếm có trên đời, đă không quản ngại làm việc ác, làm phản mà
gây nên cơ nghiệp hiển hách của nhà Trần, đuổi giặc Nguyên, đem lại vinh
quang cho cả dân tộc về cả văn minh và đời sống.
Không lường sức ḿnh, không đo tài ḿnh, tôi đă hành động như ông Trần Thủ
Độ nên đất nước mới tan nát, nhân dân ta mới điêu linh, mà đầu ḿnh th́ nặng
nề không biết bao nhiêu tội ác, không thể nào tha thứ được.
Cái nhầm tai hại nhất của tôi là đi theo Cộng sản Mác Xít mà không biết là
chủ nghĩa này chẳng qua chỉ là giả bộ, để đánh lừa giai cấp nghèo mà cướp
lấy chính quyền cho nước Nga khi đó.
Tôi cũng ngay t́nh mà dùng những người hợp tác với tôi. Tôi cứ tưởng những
người đó quư yêu tôi, đâu ngờ họ đều là mật thám của Nga sô, vây quanh tôi
chỉ là để kiểm soát tôi, khéo léo hướng dẫn tôi đi theo con đường Nga đă
vạch sẵn. Họ đề cao và tâng bốc tôi để khi nào làm điều ǵ độc ác th́ tôi
phải chịu hết trách nhiệm với dân tộc. Nhiều khi họ quyết định mà không hề
cho tôi hay biết ǵ, như vụ cải cách điền địa ở Bắc Bộ chẳng hạn, bây giờ
nhân dân có quyền rủa oán trách tôi không biết để đâu cho hết.
Dù sao tôi vẫn là người có tội, tôi không dám chối căi, chỉ dám mong lịch
sử sau này xét kỹ cho tôi mà đừng lên án tôi quá nặng nề.
Đầu năm 1963, hồi đó tôi c̣n chưa bị bọn quanh tôi bao vây chặt chẽ quá,
tôi có nhờ mấy nhân viên Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Đ́nh Chiến chuyển vào
Nam bộ hai cành đào lớn rất đẹp để tặng cụ Ngô đ́nh Diệm, kèm theo một bức
thư, trong thư đó, tôi có chân t́nh yêu cầu cụ Ngô cùng tôi thảo luận
trong t́nh anh em, để hai bên cùng lo cho dân chúng hai miền, trên căn bản
thi đua làm cho dân giàu, nước mạnh, theo đường lối riêng của từng người.
Truyện này lộ ra, làm cụ Ngô bị giết trong Nam, c̣n ở ngoài Bắc th́ tôi bị
kiểm soát rất khắt khe, không có quyền quyết định điều ǵ nữa cả. Đáng lư
ra tôi có thể bị giết ngay từ hồi đó rồi, nhưng tên tuổi c̣n được thế giới
biết đến, nên họ c̣n phải lợi dụng mà để tôi sống thêm. Tôi đă già rồi,
râu tóc đă bạc mà c̣n phải sống trong cảnh tù giam lỏng, cứ nghĩ đến điều
này làm tôi ứa nước mắt. Họ đă không giết tôi nhưng sai ông Bác sĩ Tôn
thất Tùng cho tôi uống thuốc độc để tôi không thể đi đâu được nữa, mà cũng
không thể tiếp xúc với những người mà tôi muốn tiếp xúc. Tôi chưa chết
ngay, nhưng là chết dần, chết ṃn, ở biệt lập một nơi để đợi ngày tắt thở.
Thật cũng tiếc, khi về già, biết ḿnh sai lầm, muốn chuộc lỗi mà không
được nữa.
Trước khi viết phần cuối của tờ di chúc này, tôi xin thú nhận, tôi là một
người không phải thần thánh ǵ nên khi tôi c̣n sống cũng đủ bảy tính như
kinh nhà Phật đă đề cập. Tôi không có vợ, nhưng cũng có được đứa con gái
lai Pháp. Tôi ước mong con gái tôi, khi đọc tờ di chúc này sẽ tha thứ cho
tôi đă không đủ bỏn phận làm cha, nhưng phụ tử t́nh thâm, tôi luôn nhớ tới
con gái tôi với muôn vàn âu yếm.
Ai cũng tưởng tôi là con người vô thần, nhưng riêng Đức cha Lê hữu Từ th́
biết tôi rất tin có Đấng Tạo Hóa. V́ tin có ông trời nên tôi xin khẩn cầu
cho nước ta và các nước Cộng sản khác trên thế giới sớm thoát ách Cộng
sản.
Tôi cũng xin ông Trời cho tờ di chúc này có ngày được phổ biến khắp nơi.
Cuối cùng, tôi xin lẩy Kiều, mượn tạm hai câu thơ của cụ Nguyễn Du để tỏ
ḷng hối hận trước cao xanh:
Rằng con biết tội đă nhiều
Dẫu rằng sấm sét búa ŕu cũng cam
Hà Nội 14-8-1969
Tên kư: Hồ chí Minh
Qua bức di chúc trên, ta có thể đưa ra những nhận định về sự trung thực
được đề cập đến trong đó như sau:
· Chuyện ông Hồ gửi cành đào tặng cho ông Diệm vào xuân 1963 là chuyện có
thật. Sách báo Hà Nội sau 1975 đều dấu nhẹm chuyện ông Hồ t́m cách liên
lạc với ông Diệm v́ Cộng sản Việt Nam đánh giá chế độ ông Diệm như là một
chế độ ngụy, tay sai của Mỹ nên chuyện liên lạc trao đổi với chế độ này có
thể làm mất đi hào quang cách mạng của Miền Bắc. Khi chuyện tranh đấu Phật
giáo nổ ra, áp lực người Mỹ ngày càng đè nặng lên chính quyền đệ nhất Cộng
Ḥa. Mỹ muốn giữ ông Diệm lại nhưng yêu cầu vợ chồng Ngô đ́nh Nhu đi lưu
vong. Và ông cố vấn Ngô đ́nh Nhu đă t́m cách phá vỡ áp lực của Mỹ bằng
cách t́m cách bắt tay với Miền Bắc. Nghe nói ông Nhu đă đi gặp Phạm Hùng
tại Định Quán để trao đổi bàn bạc chuyện hợp tác. Dĩ nhiên chuyện bắt tay
của Nhu chắc chắn được tiến hành với sự đồng ư của ông Diệm. Trưởng phái
đoàn Ba Lan trong Uûy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đ́nh Chiến lúc đó là ông
Mieczyslaw Maneli đă làm nhiệm vụ con thoi liên lạc giữa hai miền Nam Bắc.
Ông Maneli sau này định cư ở Tây phương và viết hồi kư kể lại mọi chuyện.
Có lẽ t́nh báo Mỹ ở Sài g̣n lúc đó đă phát hiện ra chuyện ông Nhu đi liên
lạc với Cộng sản và từ đó phía Mỹ quyết định bật đèn xanh cho các tướng
lănh đảo chánh để dứt điểm chế độ Ngô đ́nh Diệm. Về phía ông Hồ, như ông
đă nói trong di chúc trên là sau khi t́m cách liên lạc để ḥa giải ḥa hợp
với Miền Nam th́ ông bị tước hết quyền hành v́ Quốc Tế Cộng sản không dung
thứ hành động thân thiện này của ông. Đó cũng là một lối suy diễn hợp lư
của ông về số phận thất sủng của ông. Và ông đưa ra nhận định Ngô đ́nh
Diệm bị giết v́ chuyện toan bắt tay với Miền Bắc. Đó cũng là một nhận xét
chí lư.
Nói chung Miền Bắc cũng như Miền Nam đều rơi vào những gọng kềm của quốc
tế. Nếu những người Việt Nam lănh đạo ở hai miền không đi đúng sách lược
của những thế lực quốc tế đề ra th́ bị tiêu diệt ngay. Ngô đ́nh Diệm bị
giết và Hồ chí Minh bị thất sủng v́ đă không đi đúng đường lối sách lược
của quan thầy đề ra. Nói thế để thấy hai miền Nam Bắc chưa bao giờ hưởng
được sự độc lập thật sự mà rơi vào thế bị khống chế bởi những gọng kềm
quốc tế: một bên là Tư Bản, một bên là Quốc Tế Cộng Sản.
* Trong di chúc này, Hồ chí Minh chỉ nhắc đến cô con gái lai Pháp mà lờ đi
hai cậu con rơi là Nguyễn tất Trung ( có mẹ là Nông thị Xuân ) và Tổng bí
thư hiện nay là Nông đức Mạnh ( có mẹ là một phụ nữ thiểu số người Tày ).
Lư do ông lờ đi có lẽ v́ lư do an ninh v́ Miền Bắc vốn thần thánh hóa con
người ông, tô vẽ ông là một con người không lấy vợ, hoàn toàn hy sinh cuộc
đời cho sự nghiệp giải phóng đất nước, nếu x́ ra chuyện có con rơi trong
nước th́ số phận của con rơi này cũng không được an toàn. Cho tới giờ này
người ta không biết số phận của Nguyễn tất Trung ra sao, chỉ biết là sau
khi mẹ Trung là Nông thị Xuân bị thủ tiêu th́ Trung được giao cho người
hầu cận thân tín của Hồ chí Minh là Vũ Kỳ nuôi; c̣n Tổng bí thư hiện tại
Nông đức Mạnh th́ luôn miệng chối bai bải ông Hồ không phải là cha ruột
của ông !
Nói chung Hồ chí Minh có cả thảy 3 người vợ ïđược mọi người sau này biết
đến là Nguyễn thị Minh Khai ( vốn là chị ruột của Nguyễn thị Minh Thái, vợ
đầu của Vơ nguyên Giáp), người vợ Tàu Tăng tuyết Minh, và người vợ gốc
thiểu số Nông thị Xuân. Nói chung là Hồ chí Minh có 3 vợ, c̣n những người
đàn bà ông dan díu qua đường th́ không biết bao nhiêu. Có lẽ noi theo
gương ông nên Lê đức Thọ có 2 vợ, Lê Duẩn có 3 vợ. Xem ra những tay lănh
đạo Đảng Cộng sản Việt Nam tay nào cũng dồi dào về vấn đề sinh lư. Aâu đóù
cũng là thứ đạo đức cách mạng mà họ dạy dỗ cho toàn dân noi theo!
Trong bản chúc thư có những dấu ấn của Hồ chí Minh như viết tắt chữ d
thành chữ z. Thí dụ di chúc thành zi chúc, Nguyễn Du thành Nguyễn Zu , Dẫu
rằng thành Zẫu rằng . Từ hồi xa xưa, khi viết cuốn sách Đường Cách Mạng Hồ
chí Minh đă viết thành Đường Kách Mạng ( dùng chữ k thay cho chữ c). Chỉ
với yếu tố cách viết đặc biệt này làm người ta càng tin tưởng thêm đây
chính là chúc thư thật của Hồ chí Minh.
* Bức chúc thư có nhắc đến bảy tính của nhà Phật . Bảy tính đó là : Hỉ,
Nộ, Ái , Ố, Bi , AI , Dục, tức những trạng thái vui, buồn, giận ghét thông
thường của một con người. Nhân chuyện Hồ chí Minh có nhắc đến nhà Phật th́
cũng nên nói thêm là nên nh́n lư thuyết Nhân Quả của nhà Phật để nh́n vào
cuộc đời Hồ chí Minh để thấy cái chính xác của lư thuyết này. Lúc Hồ chí
Minh c̣n sống, ông cũng thú nhận trong chúc thư, cũng như ai cũng biết là
ông đă làm những chuyện cực kỳ độc ác, đến lúc về già th́ bị giam lỏng cho
chết dần, chết ṃn một cách thê thảm. Lúc chết rồi th́ ư nguyện hỏa táng
xác thân cũng không được thi hành mà bị móc bụng nằm trong lăng cho thiên
hạ coi. Đúng là chết rồi mà c̣n bị mổ bụng không cho chôn! Thật là một
h́nh phạt nặng nề mà ông phải chịu để trả những tội ác mà ông đă tạo ra
lúc sinh thời. Mong những kẻ đang làm ác sẽ trông gương Hồ chí Minh mà
cảnh tỉnh để làm lành, lánh dữ trước khi quá trễ.
Bùi Tín có kể chuyện vào năm 1989, Vũ Kỳ có gặp ông và cho biết bản chúc
thư mà Hồ chí Minh viết cho Lê Duẩn công bố với toàn dân ( mà trong di
chúc thật Hồ chí Minh thú nhận là phải viết theo sự bức bách của Lê Duẩn
)cũng bị cắt xén v́ có những đoạn không hợp ư Lê Duẩn. Chỉ riêng chuyện Vũ
Kỳ công bố sự thật này cũng làm cho ông bị Bộ chính trị Đảng gọi lên hạch
sách và răn đe. Ngay trong di chúc trao cho Lê Duẩn, Hồ chí Minh đă nói
lên mong muốn là khi qua đời, ông mong thân xác ông sẽ được hỏa táng và
tro cốt được rải trên núi sông, nông dân được miễn thuế trong vài năm. Lê
Duẩn đă không theo lời di chúc để hỏa táng mà trái lại cho xây lăng để
triển lăm cái xác ông cho thiên hạ chiêm ngưỡng. Chuyện miễn thuế theo lời
yêu cầu của Hồ chí Minh cũng bị bỏ qua.
Bùi Tín kể rơ chuyện này như sau:
Năm 1989, nhân dịp 20 năm ngày mất của ông Hồ chí Minh, ông Vũ Kỳ, nguyên
thư kư của ông Hồ chí Minh đă cùng tôi bàn nhau phải đưa toàn bộ Di chúc
ra ánh sáng. Không thể mập mờ măi được. Không thể quịt của người nông dân
một năm thuế.
Ông Hồ chí Minh bắt đầu viết Di chúc từ tháng 5-1965, sau đó cứ vào tháng
5 hàng năm lại viết lại, viết thêm. Cho nên có tới bốn bản di chúc bổ sung
cho nhau. Ông Vũ Kỳ kể chuyện là ngày 2-9-1969, sau khi ông Hồ chí Minh
mất, vào buổi tối ông Phạm văn Đồng đến nơi đặt thi hài ông Hồ. Ông Vũ Kư
đưa ra chiếc phong b́ lớn đựng cả bốn bản Di chúc. Ông Phạm văn Đồng đưa
cả hai tay ra ngăn lại, Không, tôi không nhận. Đây là chuyện hệ trọng, để
ngày mai, có đầy đủ bộ chính trị, đồng chí đưa ra. Sáng 3-9-1969, có đầy
đủ Bộ Chính Trị, ông Vũ Kỳ đưa ra chiếc phong b́ lớn ấy. Ông Lê Duẩn liền
cầm lấy rồi gọi ông Hoàng Tùng, Tổng biên tập báo Nhân Dân vào pḥng nhỏ
bên cạnh. Ông Duẩn tự quyết định chỉ đưa ra một bản, cắt bỏ, sữa chữa vài
chỗ rồi giao cho ông Hoàng Tùng công bố. Tất cả các bản c̣n lại ông Duẩn
giao cho ông Trần quốc Hoàn giữ như văn kiện tuyệt đối bí mật. Cho đến khi
ông Trần quốc Hoàn thôi chức Bộ trưởng Bộ Công An và chức ủy viên Bộ Chính
Trị ( tháng 3-1982), ông Vũ Kỳ không tài nào lấy lại được tập Di Chúc ấy.
Chỉ đến khi ông Trần quốc Hoàn ốm nặng, ông Vũ Kỳ mới moi được bí mật qua
lời hấp hối của ông Trần quốc Hoàn, ..trong két sắt đặt ở nhà riêng, ngăn
thứ hai, tầng dưới cùng. Thế là cả tập nguyên bản di chúc được t́m thấy.
Tháng 5-1989, tôi bàn với ông Vũ Kỳ, đặt ông viết một bài báo đặc biệt kể
Chủ tịch Hồ chí Minh viết Di Chúc như thế nào, đăng trên tuần báo Nhân Dân
chủ nhật do tôi trực tiếp biên tập. Phản ứng của lănh đạo rất mạnh. Một số
ủy viên Bộ Chính Trị đă lên án hai chúng tôi là làm một việc tầy trời, dám
công bố văn kiện quan trọng bậc nhất của Chủ tịch Hồ chí Minh mà chưa được
phép của Bộ Chính Trị. Trước những cặp mắt nghiêm nghị của bốn ủy viên Bộ
Chính Trị Nguyễn thanh B́nh, Đào duy Tùng, Nguyễn đức Tâm, Đồng sĩ Nguyên
và Trưởng ban tư tưởng và văn hóa Trần trọng Tân, ông Vũ Kỳ rất điềm tĩnh.
Ông trả lời, Tôi đâu có công bố Di Chúc, tôi chỉ viết theo yêu cầu của anh
Thành Tín ở báo Nhân Dân. Nhân đây tôi cũng xin báo cáo suốt hai mươi năm
nay tôi ăn không ngon, ngủ không yên, cho đến khi nào toàn bộ Di Chúc của
Bác đến được với nhân dân. Sau đó Bộ Chính Trị phải họp hai lần để bàn
riêng về việc này và cuối cùng phải đưa ra Quốc Hội bàn về việc công bố
toàn bộ các bản Di Chúc, đồng thời quyết định giảm thuế nông nghiệp trong
hai năm, mỗi năm 50%. Ông Vũ Kỳ và tôi rất mừng, cùng nhau cuing một cốc
bia, nghĩ rằng thế là bà con nông dân ta bị hy sinh nhiều nhất về người và
của trong chiến tranh cũng đỡ khổ được đôi chút.
Riêng về việc xây lăng Chủ Tịch Hồ chí Minh, rất nhiều trí thức, cán bộ và
đồng bào cho rằng không nên làm điều ngược với nguyện vọng thiêng liêng
của người sắp từ giă cơi đời, nhất là khi nguyện vọng ấy lại cao đẹp. Chủ
Tịch Hồ chí Minh yêu cầu không nên phúng viếng linh đ́nh, tốn kém, mong
thi hài ḿnh được hỏa thiêu, vậy mà nguyện vọng ấy không được thực hiện.
Thi hài ông không được nhập vào đất đai của quê hương, vẫn nằm trong một
chiếc lăng đồ sộ mà lạnh lẽo, tốn kém biết bao nhiêu vật liệu và công sức
của nhân dân?..
( Trích Hồi Kư Hoa xuyên tuyết của cựu Đại tá Bùi Tín, xuất bản năm 1991,
trang 118, 119 , Nhà xuất bản Nhân Quyền )
Nguyện ước khi chết đi được hỏa táng được Hồ chí Minh viết trong di chúc
như sau :
Sau khi tôi qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đ́nh, để khỏi lăng
phí th́ giờ và tiền bạc của nhân dân.
Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là hỏa táng . Tôi mong rằng cách
hỏa táng sau này sẽ được phổ biến. Và như thế đối với người sống đă tốt về
mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng. Khi ta có nhiều điện, th́ điện táng
cũng tốt hơn.
Tro th́ chia làm 3 phần, bỏ vào 3 hộp sành, một hộp cho miền Bắc, một hộp
cho miền Trung, một hộp cho miền Nam.
Đồng bào mỗi miền nên chọn một quả đồi mà chôn hộp tro đó. Trên mả không
nên có bia đá, tượng đồng, mà nên xây một ngôi nhà giản đơn, rộng răi,
chắc chắn, mát mẻ, để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ nghỉ ngơi.
Lê Duẩn đă đục bỏ ước nguyện hỏa thiêu này của Hồ chí Minh khi công bố Di
Chúc của Hồ cho nhân dân Miền Bắc. Trong suốt cuộc đời hoạt động chính
trị, Hồ chí Minh đă giết oan quá nhiều người nên sự oán thù đối với ông
vẫn c̣n dai đẳng dù ông đă nằm xuống. Nhưng mà thôi, nghĩa tử là nghĩa
tận, nền văn hóa Việt Nam cao đẹp của chúng ta đă dạy chúng ta là không
nên hận thù người đă chết. Chỉ mong sao chế độ Cộng sản sớm sụp đổ để
nguyện ước hỏa thiêu thân xác của ông Hồ được thỏa măn. Tro bụi ông sẽ đi
vào ḷng đất mẹ, cát bụi rồi sẽ trở về cát bụi. Có nh́n thấy cái chết mới
thấy thân phận nhỏ nhoi yếu đuối của con người trước vũ trụ bao la. Cho dù
người đó có quyền lực to lớn thế nào đi nữa th́ khi nằm xuống cũng trở
thành cát bụi vô tri. Vấn đề của người làm chính trị là làm sao sau khi
ḿnh qua đời, nhân dân vẫn dành cho ḿnh sự yêu mến, tiếc thương. Chuyện
xây mồ xây mả chỉ là những h́nh tướng bên ngoài, không có tác động ảnh
hưởng dài lâu đối với ḍng sống của một dân tộc. Di sản đáng quư thật ra
là những tinh thần cao đẹp mà người quá cố để lại. Lưu danh muôn thuở hay
lưu xú vạn niên là cũng do những hành động làm lúc c̣n sống và lưu truyền
đến các thế hệ sau. Lịch sự rất công b́nh và sẽ định công, luận tội rạch
ṛi bất cứ người nào có những ảnh hưởng đến sự sống c̣n và phúc lợi của
đất nước và nhân dân.
Cuộc đời Hồ chí Minh quả có nhiều bí mật nhưng rồi không có ǵ bí mật dưới
ánh sáng mặt trời. Mọi chuyện uẩn khúc dần dần được phơi bày trọn vẹn để
công chúng có thể nh́n thấy con người thật của Hồ chí Minh.
Nh́n chuyện ông Hồ bị thất sũng và ông Diệm bị giết khi tính chuyện ḥa
hợp, ḥa giải với nhau cũng đủ cho thấy gọng kềm quốc tế khống chế hai ông
đến như thế nào. Người lănh đạo tương lai của Việt Nam nên lấy đó làm
gương để khéo léo tránh né để không bị gọng kềm quốc tế nào điều động và
chi phối. Có thế Việt Nam mới mong có một nền độc lập thật sự chứ không
phải là thứ độc lập hăo mà Việt Nam đă có trong mấy mươi năm vừa qua. Khi
có được một nền độc lập thật sự th́ mới mong xây dựng được một nước Việt
Nam có chủ quyền, để từ đó mới mong đề ra những chính sách ích quốc, lợi
dân, không lệ thuộc vào bất cứ thế lực quốc tế nào. Có độc lập dân tộc mới
xây dựng được bản sắc dân tộc và lấy đó làm nền móng cho công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước dài lâu.
|