Cơ quan xuất bản Nhà Nước
Trung Cộng Foreign Languages Press cho phát hành năm 1988 tại Bắc kinh bản
tiếng Anh A Drop in the Ocean, Hoàng Văn Hoans Revolutionary
Reminiscences dịch từ quyển hồi kư của Hoàng Văn Hoan Giọt Nước Trong
Biển Cả (GNTBC) viết xong năm 1986. Hoan là đồng chí thân tín của Hồ Chí
Minh, sinh năm 1905 tại huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, từng giữ nhiều chức
vụ cao trong các ngành Lập pháp, Hành pháp và Ngoại giao của Việât cộng như
Đại sứ tại Trung hoa, Triều tiên và Mông Cổ (1950-1957), Ủy viên Bộ Chính
trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc
hội nước VN Dân chủ Cọng ḥa..vv.. Hoan theo Cách mạng từ 1926, được huấn
luyện tại Quảng Châu, gia nhập đảng CS Thái lan năm 1930, hoạt động tại
Trung quốc từ 1935 đến 1942, xin tị nạn chính trị ở Bắc kinh năm 1979 và
qua đời tại đây sau 1990.
GNTBC dày 386 trang, gồm có phần dẫn đầu, bảy chương, phần phụ lục và
nhiều h́nh ảnh của Hoan chụp với Hồ, Mao, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu B́nh và
nhiều lănh tụ khác của Trung quốc. Bị xem như đồ « quốc cấm » tại VN,
quyển hồi kư này phơi bày trước ánh sáng sự tranh giành quyền lực gay gắt
ở Bắc Việt giữa hai phe thân Nga và thân Tàu trước 1975 và đặc biệt, vai
tṛ lănh đạo « bù nh́n » của một Hồ Chí Minh bất lực và bệnh hoạn trước
khi qua đời.
Bài viết hôm nay chỉ chú trọng đến ba điểm chính trích từ GNTBC: Trường
hợp Nga sô thay thế ảnh hưởng của Trung quốc ở VN - Vai tṛ của Lê Duẫn
trong việc thống nhất quốc gia - và Lê Duẫn phản bội Cách mạng.
I Nga viện trợ quân sự Bắc Việt chống Mỹ.
Sau khi Hiệp ước Genève được kư ngày 20.7.1954, Đảng Lao động VN tỏ ra lơ
là với chủ trương của Nga sô để Nam và Bắc VN sống chung ḥa b́nh. Trái
lại, đường lối của Bắc kinh được Hànội hưởng ứng: xâm nhập âm thầm Miền
Nam, xách động quần chúng, và chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Năm 1962, Trung
quốc cung cấp 90.000 súng trường và súng máy cho quân du kích Bắc Việt.
Lúc đầu Lê Duẫn đồng ư với chiến thuật này nhưng về sau, bị Krushchev thuyết
phục, y đổi hướng, chống Bắc kinh, nghĩ rằng Nga sô sẽ giúp Hànội thương
thuyết với Hoa kỳ. Tháng 10.1964, Brezhnev lật đổ Tổng Bí thơ Krushchev.
Thủ tướng Chu Ân Lai và Thống chế He Long qua Mạc Tư Khoa dự lể kỷ niệm
Cách mạng Tháng mười để xoa dịu bang giao giữa hai nước. Trong một buổi
tiệc, Suslov, thành viên trong Politburo, cho Chu biết thẳng thừng rằng
chính sách đối với Trung quốc do Đảng CS Liên xô ấn định chớ không phải
Krushchev. Tổng trưởng Quốc pḥng Nga Malinovsky c̣n khuyên Thống chế He
Long đảo chính Mao. Để chứng minh chính sách chống Bắc kinh không thay đổi,
Mạc Tư Khoa cho dàn gần một triệu quân dọc theo biên giới Nga-Hoa.
Với sự cọng tác của Lê Duẫn, Nga sô đă tách VN ra khỏi đường lối chiến
tranh kháng chiến, war of resistance, của Hồ Chủ tịch và biến VN thành một
căn cứ chống Trung quốc để mở rộng sự kiểm soát trên toàn bán đảo Đông dương
và đe dọa ḥa b́nh ở Đông Nam Á.
Đầu 1957, Lê Duẫn từ Miền Nam VN trở về Trung ương Đảng để lănh chức vụ
quyền Tổng Bí thơ, thay thế Trường Chinh bị quy trách đă làm cho kế hoạch
cải cách ruộng đất thất bại. Duẫn thừa cơ hội gây vi cánh gồm có hai tướng
Văn Tiến Dũng và Nguyễn Văn Vinh (trong Bộ Quốc pḥng), Tố Hữu, Trần Quỳnh
và Hoàng Tùng (trong Bộ Tuyên truyền), Nguyễơn Cơ Thạch (Ngoại giao), Trần
Quốc Hoàng (An ninh Công cọng), Hoàng Quốc Việt và đặc biệt, Lê Đức Thọ (ủØy
viên phụ trách Tổ chức, Ủy ban Trung ương) là người được tin cậy nhất. Với
nhóm tay chân này, Lê Duẫn tiếm quyền lănh đạo để thực thi mục tiêu hắc ám
của ḿnh.
Năm 1964, Duẫn kư một bản tuyên cáo hữu nghị với Nga và chống nghị quyết
của Ủy ban Trung ương CSVN lên án đường lối xét lại (revisionism) . Duẫn
khai thác việc Nga viện trợ quân sự cho VN để gia tăng hoạt động bài Hoa.
Chiến tranh chống Mỹ trở nên quyết liệt . Mạc Tư Khoa từ chối cung cấp cho
quân đội Bắc Việt vũ khí tối tân, viện lẽ Trung quốc có thể ăn cắp kỹ
thuật. Cũng trong lúc ấy. Nga gởi chiến đấu cơ MIG-23 để giúp Ấn độ và Ai
cập.
Thay v́ gởi thẳng quân trang và dụng cụ qua VN bằng đường biển để tránh
tốn hao, Mạc Tư Khoa nhất quyết chuyển bằng đường xe lửa, bốc và dở hàng
tại Trung quốc. Bởi thế, vơ khí và lương thực viện trợ từ Nga sô, Đông Âu
và luôn cả nước Tàu chồng chất như núi tại nhà ga Pingxiang. Công việc
chuyên chở chậm trể v́ phương tiện lưu thông và cơ giới rất yếu kém ở VN.
Để gây hiểu lầm giữa Bắc Việt và Trung quốc, Duẫn và Nga c̣n phao vu Trung
Hoa thiếu thiện chí cọng tác.
Năm 1965, nhân dịp viếng thăm Mạc Tư Khoa và tiếp xúc với nhân viên sứ
quán và sinh viên du học Việt tại đây, Lê Duẫn đề cao Nga sô và mạt sát
Bắc kinh. Nhận thấy Duẫn tách khỏi chủ trương của Ủy ban Trung ương CSVN,
đại diện sinh viên gởi phúc tŕnh về Hanội nêu ra 40 câu hỏi. Tài liệu này
bị phe cánh của Duẫn ém nhẹm. Trên đường hồi hương, Duẫn ghé lại Bắc kinh,
chỉ trích trong ba giờ đồng hồ. trước nhân viên sứ quán Việt Nam, nhiềøu điểm
trong chính sách Trung Hoa. Đến Hànội, Lê Duẫn tuyên bố Trần Tử B́nh, Đại
sứ VN tại Bắc kinh, được tham khảo, đă đồng ư. Nhưng B́nh phủ nhận điều
này.
Lê Duẫn cho rằng một số khái niệm của Trung quốc có tính cách dân quê hơn
là vô sản. Thí dụ chủ trương lấy thôn quê bao vây thành thị (trong cuộc
chiến chống Nhựt và Tưởng Giới Thạch) và việc áp dụng nông nghiệp như nền
tảng, kỹ nghệ như yếu tố dẫn đầu trong công cuộc phát triển kinh tế quốc
gia. Duẫn c̣n khẳng định Trung quốc tạo mâu thuẩn trong giới nông dân khi
thi hành chính sách nông nghiệp căn cứ vào lớp công nhân nông trại, nông
dân nghèo và nông dân cấp trung lưu. Thật vậy, sau khi cải cách nông thôn,
không c̣n sự phân biệt nào giữa nông dân. Thái dộ chỉ trích công khai
Trung quốc vừa nói theo Hoàng Văn Hoan là một vi phạm kỷ luật trầm trọng
v́, theo huấn thị của "Bác Hồ", "mọi đả kích một đảng huynh đệ phải được
Ủy ban Trung ương Đảng hay ít nữa Chính trị bộ cho phép, sau khi tranh
luận."
Với sự khuyến khích của Lê Duẫn, Tố Hữu cho đăng trong báo Nhân Dân bài
thơ "Tôi nghĩ ǵ" ngày 13.3.1967 để tố Trung Hoa. Khi "Bác Hồ" hay và can
thiệp th́ quá chậm, bài thơ tai hại đă đuọc phổ biến rộng rải.
Năm 1967, xảy ra nhiều việc đáng tiếc: Nhân viên an ninh Nga sô hành hung
một số sinh viên Tàu viếng thăm ngôi mộ Lê-nin và sinh viên Việt biểu t́nh
chống chiến tranh trước sứ quán Mỹ tại Mạc Tư Khoa. Lê Duẫn đă hai lần xin
lổi nhà cầm quyền Nga về cuộc biểu t́nh này khi y công du tại Mạc Tư Khoa.
Hoàng Văn Hoan ghi lại: Hồ chủ tịch và Chính trị bộ rất bực bội v́ cho
hành động này quá đáng.
Sự kiện thứ ba nghiêm trọng hơn: Chính quyền Hànội yêu cầu Liên xô tống xuất
về VN lối 48 cẵn bộ và sinh viên Việt xin tị nạn chính trị tại Nga v́ họ
không muốn tham gia chiến tranh Nam - Bắc Việt. Số này gồm có Lê Vĩnh Quốc,
một sĩ quan chỉ huy sư đoàn, phóng viên Văn Đoàn trong báo Quân Đội Nhân
Dân, Nguyễn Minh Cần và Trần Minh Việt (thành viên của Ủy ban Nhân Dân
Thành phố Hànội). Mạc Tư Khoa từ chối v́ muốn xử dụng họ trong kế hoạch
tương lai.
Mặc dù trái ư Hồ chủ tịch, Lê Duẫn vẫn dửng dưng giữ nguyên đường lối
chống Tàu. Theo Hoàng Văn Hoan, Duẫn bị thực dân Pháp và nhóm xét lại của
Krushchev ảnh hưởng. Đúng vậy, nhà cầm quyền thuộc địa Pháp nơm nớp lo sợ
Trung Hoa xâm lăng và đă t́m mọi cách tách VN ra khỏi lưới kềm tỏa của
Trung Hoa (gọi chung dưới danh từ "Tai họa Vàng, the Yellow Peril") về phương
diện chính trị, kinh tế, văn hóa và xă hội. Ở Nga sô, khi lật được G. M.
Malenkov để cướp quyền, Krushshchev dùng đủ cách đặt các nước xă hộïi chủ
nghĩa dưới sự chỉ huy thống nhất của y . Đặc biệt, Krushchev muốn đẩy địch
thủ ương ngạnh Trung Hoa ra khỏi khối cộng sản. Chủ thuyết này mệnh danh "Krushchovism."
ø Sau khi đến phiên Krushchev bị khai trừ, chính sách bài Hoa, dưới
Brezhnev, không thay đổi nên mang tên "Krushchovism không có Krushchev" (hồi
kư, trang 330).
Hoàng Văn Hoan nghĩ rằng lư do thầm kín khiến Lê Duẫn đoạn tuyệt với chủ
trương của "Bác" trường kỳ chống Mỹ để thắng (wage a protracted and
arduous struggle and fight to win) là Duẫn muốn nhờ Nga sô làm trung gian
để thương thuyết ḥa b́nh với Hoa Thịnh Đốn hầu giải quyết vấn đề Miền Nam
VN.
2 Vai tṛ của Lê Duẫn trong việc giải phóng Miền Nam và thống nhất VN.
Tháng 8.1964, Hoa kỳ dội bom Bắc Việt. Lê Duẫn sẵn sàng điều đ́nh. Y cho
phổ biến trong dân chúng lập luận : " Cuộc đấu tranh có thể kéo dài và
gian khổ. Nhưng chúng ta phải thử đạt tới một chiến thắng dứt khoát trong
một thời gian ngắn để giải quyết vấn đề." Khi bị chất vấn thế nào là
"chiến thắng dứt khoát" và ư nghĩa của danh từ "vấn đề", Duẫn ấp úng.
Hoàng Văn Hoan viết: Trong lúc cuộc chiến chưa ngă ngũ, chúng ta chưa nắm
thế thượng phong và kẽ thù chưa hẳn lâm vào cảnh bị động, th́ thương
thuyết với Hoa kỳ sẽ dẫn đết hậu quả chia VN thành hai vùng Nam Bắc và
công nhận ảnh hưởng của Hoa kỳ trên Miền Nam."
Ngày 30 tháng giêng, Chiến dịch 1968 bắt đầu. Quân đội Giải phóng Miền Nam
(GPMN) xâm nhập Huế và Saigon, chiếm được một số căn cứ điểm nhưng sau đó,
bị Quân đội Chính phủ Saigon và đồng minh Mỹ đẩy lui với nhiều tổn hại.
Được trớn, họ tổng phản công và cho biết muốn nói chuyện với Chính phủ
GPMN đang yếu thế.
Hai tháng sau, ngày 11.3.1968, TT Johnson tuyên bố giới hạn oanh tạc trên
phia Bắc vĩ tuyến 20 và đề nghị ḥa đàm với Hànội. Ngày 3 tháng 4, Lê Duẫn
phúc đáp sẽ cử một phái đoàn đến Paris. "Bác Hồ", đang dưỡng bệnh lúc đó
tại Bắc Kinh, tră lời không được thông báo ǵ cả khi Thủ tướng Chu Ân Lai
đến chất vấn về quyết định của Duẫn. "Bác" bị đặt trước một việc đă rồi,
mặc dù Bác đă căn dặn Lê Duẫn năm 1964 nên thảo luận trước chi tiết với
đàn anh Trung quốc. Như thế, Duẫn đă qua măët "Bác", biến Bác thành một bù
nh́n. Thật ra, sự lấn quyền đă bắt đầu từ 1965 khi Bác lâm bệïnh, mỗi ngày
thêm suy yếu. Đây là một "chỉnh lư" trong cung đ́nh Đảng, một cuộc "chỉnh
lư nhung", không bạo động, chỉ dùng sức ép chính trị của phe phái với việc
xúi dục và yểm trợ của ngoại bang. Báo Nhân Dân ngày 17.7.1966 có đăng lời
tuyên bố của Hồ chủ tịch. Quan điểm khác biệt thấy rỏ với hành động của
Duẫn. Lời tuyên bố của "Bác" có tính cách gượng gạo, như tiếng kêu trong
sa mạc, v́ quyền bính đă chuyển qua tay của Lê Duẫn và bộ hạ đang nắm vững
thời cơ.
Hiệp ước Paris được kư ngày 27.1.1973. Từ 13.5.1968 cho đến 27.1.1973, bốn
loạt dội bom của Hoa kỳ không làm cho dân Bắc Việt khiếp đảm. Hoàng Văn
Hoan kết luận: "Như Hồ chủ tịch từng nêu, thành công đạt được tại Ḥa đàm
Paris là do quân ta thắng vẽ vang trên chiến trường chớ không phải nhờ
chiến thuật ngoại giao tại bàn hội nghị như Lê Duẫn rêu rao , lại càng ít
hơn nhờ ba tấc lưởi của Lê Đức Thọ."(Hồi kư, trang 337).
"Hồ chủ tịch" qua đời tháng chín 1969. Ngày 30.4.1975, Miền Nam bị thôn
tính. VN thống nhất bằng vơ lực. Một bài b́nh luận đăng trong tạp chí Cộng
sản tháng chạp 1984 đội thành tích của Duẫn lên tận mây xanh, không phiền
nhắc đến chính sách của Bác và sự hy sinh của Quân đội Nhân dân .
Hoàng Văn Hoan đă nêu ra như sau các lổi lầm của Lê Duẫn:
"Trong chiến dịch năm 1968, Duẫn đă thẩm lượng sai sức phản ứng của đối
phương và năng lực của quân ta. Duẫn đă quá hấp tấp nhận ḥa đàm ở Bá Lê.
Chính phủ Saigon và Hoa kỳ không thành tâm thi hành Hiệp định và có kế
hoạch tiêu diệt các đơn vị GPMN. Thay v́ mở trận đánh lớn, đáng lư Duẫn
phải đấu tranh chính trị, khuyến khích quân lính Miền Nam đào ngũ, để đi
đến ḥa giải dân tộc.
Chính tướng Trần Văn Trà, người đă từng theo phe Lê Duẫn, cũng đă cuối
cùng chia xẽ quan điểm này nơi trang 70 của Hồi kư xuất bản năm 1982 tại
Hànội . Sau Hiệp định Paris, quân đội Miền Nam đă tái chiếm được một số cứ
điểm như Cửa Việt (Quảng Trị), Bảy Núi (Long xuyên), Quốc lộ 4 (Mỷ tho),
Quốc lộ 2 (Bàrịa), Sa huỳnh (Quảng Ngải)..vv..Ngoài ra họ xây dựng được
gần 300 điểm pḥng vệ tại Mỷ tho, G̣ công, Kiến tường và Bến tre.
Hoàng Văn Hoan nhấn mạnh cần phân biệt những sơ hở của Lê Duẩn qua hai
giai doạn:
1) Giai đoạn trước ngày toàn đất nước được giải phóng. Những lổi lầm thuộc
thời kỳ này nên xem như phạm phải bởi một chiến sĩ cách mạng, nhiều tuổi
đời, xuất thân từ quần chúng. Khó thể tránh lổi lầm v́ không ai tiên đoán
được việc ǵ xảy ra. Không đối phó dễ dàng những biến cố dồn dập trên đấu
trường.
2) Giai đọan sau ngày đất nước giải phóng. Duẫn cố t́nh đi ngược lại huấn
lệnh của Hồ chủ tịch và chủ thuyết Mác Lê. Y hủy hoại các thành quả hy
sinh xương máu của quần chúng. Với sự lănh đạo phát-xít của Duẫn, VN đă
trở nên một nước đe dọa láng giềng và tạo hận thù đối với thế hệ Việt
tương lai. Hơn thế, Lê Duẫn đă biến VN thành một căn cứ quân sự của ngoại
bang gây nguy hiểm cho Đông Nam Á và thế giới. Đây rỏ ràng là một sự phản
bội, lịch sử không thể quên.
3 Lê Duẫn phản bội Cách mạng
Để đối phó phản ứng của Bắc kinh, Lê Duẫn áp dụng một số mưu mô xảo quyệt:
Triệu tập đầu tháng chạp 1976 Đại hội Đảng kỳ bốn để khai trừ các địch
thủ. Trước đó, Duẫn đă viện đủ lư do để đ́nh hoăn Đại hội nhiều lần. Khi
đi công du tại Cuba trở về Hànội, Hoàng Văn Hoan được Lê Đức Thọ, Trưởng
ban Tổ chức, cho biết y không được tái bầu vào Ủy ban Trung ương Đảng
(UBTU) v́ vắng mặt. Từ nhiều năm, cơ cấu lănh đạo tập thể này đă mất hết
quyền hạn. Hoan xin phát biểu ư kiến trong Đại hội. Thỉnh cầu bị bác. Một
phần ba tổng số ủy viên củ trong UBTU bị thay thế bởi người của Duẫn -
Thọ. Số thành viên, trong Ủy ban nay tăng từ 71 lên 133, đa số ngă theo
Duẫn, thành phần c̣n lại ngậm miệng v́ sợ bị đàn áp. Đại hội vừa kết thúc
tại trung ương, Lê Đức Thọ về cấp quận và tỉnh nhóm các ủy ban địa phương,
giới hạn tuổi ra ứng cử tại quận (sụt xuống 50) và tại tỉnh (sụt c̣n 55).
Phe phái của Lê Duẫn được gài vào tất cả cơ cấu an ninh, từ thượng đến
hạtầng.
Buộc UBTU Đảng chấp nhận quyết nghị chống Trung hoa. Sau khi Hồ Chủ tịch
qua đời và Miền Nam VN sụp đổ, Lê Duẫn công khai thể hiện chính sách bài
Hoa của ḿnh. Hànội bác đề nghị của Trung quốc mở một Ṭa Tổng lănh sự tại
Saigon viện lẽ ở VN không c̣n Huê kiều mà chỉ có người Việt gốc Hoa. Giới
mại bản Tàu (compradores) bị khủng bố thẳng tay. Một số đông người Hoa có
Việt tịch bị truất hữu tài sản và xua vào các vùng kinh tế mới. Phụ nữ
Việt có chồng chệt xin ly dị để tránh khó khăn. T́nh h́nh biên giới
Hoa-Việt trở nên căng thẳng do thái độ khiêu khích của quân đội Việt.
270.000 Huê kiều bị trục xuất về nguyên quán. 100.000 người khác, hoảng
sợ, thoát đi bằng đường biển. Lê Duẫn c̣n ra lệnh cho Trường Chinh ép Ủy
ban soạn thảo Hiến pháp ghi vào tân Hiến Pháp điều khoản tuyên bố "dân
Việt sẽ có một sự đọ sức với những người Hoa chủ trương bành trướng bá
quyền và với các tay sai của chúng tại Cam-bu-chia." Năm 1978, theo đề
nghị của Lê Duẫn, UBTU Đảng thông qua một quyết nghị với nội dung xác nhận
Trung Hoa là " kẽ tử thù trực tiếp của dân tộc Việt", cần lật đổ sự lănh
đạo phản động của Mao Trạch Đông và bè lũ; có nhu cầu thiết yếu giúp các
lực lương cấp tiến nắm quyền tại Trung quốc; và nên cổ động các xứ Đông
Nam Á chống lại nước Tàu. Để thi hành quyết nghị này, Phạm Văn Đồng đi vận
động với các quốc gia trong vùng.
Ngày 3.11.1978, Lê Duẫn và Phạm Văn Đồng kư tại Mạc Tư Khoa Hiệp ước Hữu
nghị và Cọng tác Việt-Sô để đánh dấu kỹ nguyên đồng minh quân sự giữa hai
xứ. Chủ đích thật sự của văn kiện này là đặt VN dưới sự che chở của Liên
xô nếu Bắc kinh tấn công hay đe dọa tấn công. Ngày 25,12.1978, Lê Duẫn xua
200.000 quân đánh Cao Miên, viện lẽ để chấm dứt chế dộ diệt chũng của Pol
Pot được Bắc kinh ủng hộ. Ngày 7.1.1979, Nam Vang thất thủ. Ngày 10 tháng
giêng.1979, Duẫn dựng ra chế độ bù nh́n Heng Samrin để cai trị Cọng ḥa
Nhân dân Kampuchea và hợp thức hóa sự xâm lăng của Hànội. Quân đội CSVN sa
lầy 7 năm tại Cam-pu-chia. Bảy quyết nghị của Liên Hiệp Quốc thúc Hànội
rút quân. 600.000 Việt kiều định cư ở Cao Miên để việt nam hóa xứ này. Lào
cũng chịu chung một số mạng.
*****
Hoàng Văn Hoan kết luận: Sự phản bộâi Cách mạng của tập đoàn Lê Duẫn Lê
Đức Thọ mang lại nhiều hệ quả tai hại. Trong Đảng và nội t́nh Đất nước
cũng như về phương diện ngoại giao. Đối với cá nhân Hoan, một loạt biện
pháp sĩ nhục, đe dọa và cô lập hóa được đem ra áp dụng, mặc dù Hoan vẫn
c̣n giữ chính thức chức Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc Hộâi. Hoan
không được mời dự lễ kỷ niệm 40 năm thành lập Đảng. Báo chí được lệnh
không nhắc đến Hoan. Văn pḥng và tư gia của Hoan bị đặt máy nghe. Hoan bị
theo dơi sít sao, ngay că khi nhập viện để trị bệnh. Thân nhân, bạn bè và
người quen tránh Hoan v́ sợ hải. Vợ, con Hoan không c̣n cảm thấy an toàn.
Đời sống là một địa ngục.
Sau ngày UBTU Đảng công bố quyết nghị chống Bắc kinh và Cam-pu-chia bị
chiếm, Hoan quyết định đào thoát để "tiếp tục đấu tranh cách mạng." Hoan
vào Bêïnh viện 108 Hànộâi để được khám nghiệm về chứng ung thư phổi. Hai
tháng sau, đầu năm 1979, các bác sĩ đề nghị với Ủy ban Trung ương Đảng cho
phép Hoan qua Đông Đức điều trị. Khi phi cơ đáp xuống trạm Ấn độ, t́nh báo
Trung Hoa bố trí đưa Hoan thẳng đến Bắc kinh. Nơi đây, Hoan được đối xử
như một thượng khách. Hoan họp báo, phổ biến "Bức tâm thư gởi cho tất cả
các đồng bào VN" đểø tố tội ác và sai lầm của mafia Lê Duẫn. Đài phát
thanh Hànội loan tin Hoan " phản bội". Hai chục ngày sau, Hoan bị trục
xuất khỏi đảng CSVN, lột chức Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó chủ tịch Ửy ban
Thường trực Quốc Hội và thành viên Chủ tịch đoàn của Mặt trận Tổ quốc.
Ngày 26.6.1980, Ṭa VN tuyên án tử h́nh Hoan khiếm diện và truyền tich thu
tài sản. Ngày 10.7.1980, nhật báo Nhân Dân tại Trung hoa đăng lời kêu gọi
của Hoan cổ vơ quần chúng VN "làm một cuộc cách mạng khác" chống Lê Duẫn
và đồng bọn để xây dựng "mộât nước VN độc lập, trung lập, không xếp hàng,
sống ḥa b́nh và thân thiện với các lân bang; một quốc gia dân chủ, thống
nhất, phồn thịnh và công bằng về xă hội."
"Nhà chính trị đào thoát" Hoàng Văn Hoan qua đời xa Đất Mẹ, mang xuống
Tuyền đài giấc mộng hồi hương và cách mạng không thành. Hoan là nhân vật
ly khai quan trọng đầu tiên tố giác sự rạn nứt trong cung đ́nh Bắc Việt.
Đến giờ chót, Hoan vẫn là một tín đồ ngoan của Mác-Lê và một đồng chí tôn
thờ "Bác Hồ." Duẫn và Hoan học cùng một sách, chung một đạo ( xă hội chủ
nghĩa ). Hai con cua trong một giỏ, hai chó sói trong một chuồng. Họ chỉ
đối kháng lẫn nhau ở phương cách thể hiện mục tiêu. Trong khi Miền Nam khổ
sở với Hoa Thịnh Đốn th́ Bắc Việt cũng khốn đốn không ít v́ là địa bàn
tranh dành ảnh hưởng quyết liệt giữa Bắc kinh và Mạc Tư Khoa.
Trong số 47, tháng giêng 1985, tạp chí "Tin Việt Nam", do nhóm Hoàng Văn
Hoan chủ trương tại Bắc kinh từ tháng 3.1981, có đăng nơi trang 38 bài cực
lực phủ nhận "tin vịt cồ" do một nhật báo Việt ở Hoa kỳ tung ra về vụ "Một
Chính phủ Dân tộc Cách mạng Lưu vong" được công bố tại Paris, gồm có Chủ
tịch: Hoàng Văn Hoan, Thủ tướng: Trương Như Tảng, Phát ngôn viên: Đoàn Văn
Toại, nhân vật tham gia: dược sĩ Trần Kim Quang, kư giả Đoàn Văn Linh,
Phùng Hiệp Đoàn, Thái Quang Trung..vv...
Tháng tư 1986, v́ lư do đặc biệt, Hoan tiếp trong hai tuần lễ tại Bắc kinh
Yung Krall, một nữ "gián điệp nhị trùng " có quốc tịch Mỹ, và là con gái
của cựu Đại sứ (cộng sản) VN tại Mạc Tư Khoa. Nhân dịp này, Hoan cho biết
một số dữ kiện khá độc đáo. Đây là đề tài bài sắp đến của chúng tôi "Mạn
đàm với tác giả A Thousand Tears Falling." |