Ngày xưa ở Trung Quốc có Cao Biền rất giỏi nghề địa lư. Những phép hô thần
tróc quỷ, ông đều thông thạo. Tiếng đồn vang khắp nơi. Hoàng đế Trung Quốc nghe
tiếng, liền triệu Biền vào cung, ủy thác cho việc kiếm một ngôi đất xây dựng lăng
tẩm. Cao Biền vâng lệnh và sau năm năm t́m ṭi, hắn đă kiếm được một kiểu đất
quư mà theo hắn có thể giữ ngôi nhà Đường vững như bàn thạch.
Sau khi công việc hoàn thành, hoàng đế rất khen ngợi, sai ban rất nhiều vàng bạc
cùng phong tước lớn cho Biền. Nhưng Biền vốn biết trong kho tàng của hoàng đế có
một ng̣i bút thần có phép mầu nhiệm mà chính hoàng đế và cả triều thần không một
ai biết cả. V́ thế Biền không nhận vàng, hắn nói:
Tâu bệ hạ, hạ thần không muốn lấy vàng bạc của bệ hạ. Chỉ muốn xin một kho trong
trăm ngàn kho đồ dùng của bệ hạ bằng cách là để hạ thần rút trong chùm ch́a khóa,
nhằm ch́a kho nào th́ được phép lấy kho ấy.
Hoàng đế nghe nói, hơi ngạc nhiên nhưng vốn trọng tài Biền, lại thấy ư kiến hay
hay nên vui ḷng để cho hắn làm chuyện may rủi xem thử thế nào.
Quả nhiên kho mà Biền chỉ, đúng là kho đựng toàn bút lông dùng cho triều đ́nh.
Khi được sử dụng hàng vạn cây bút lông, hắn mang đến một ḥn đá, lần lượt đem ra
chọc mạch từng ng̣i lông vào đá. Nhưng chẳng có ng̣i nào được toàn vẹn. Mỗi lần
thấy ṭe ng̣i, hắn lại vứt đi và tiếp tục chọc ng̣i khác vào đá. Cứ như thế cho
đến lúc trong kho sắp vơi cả bút th́ bỗng có một quản bút chọc thủng vào đá mà
ng̣i lông c̣n nguyên vẹn, Biền mừng quá, reo lên:
Ta t́m được ng̣i bút thần rồi!
Biền liền cầm bút thần vẽ thử một con rồng lên mặt tường, chừa hai con mắt. Đến
khi điểm nhăn, rồng tự nhiên cuộn ḿnh được và tách ra khỏi bức tường. Rồi rồng
vụt lên trời xông vào đám mây trước con mắt kinh ngạc của mọi người. Biền lại vẽ
thêm nhiều con vật khác và những con vật ấy đều họat động không khác ǵ những
con vật có thật.
Rồi đó Cao Biền vẽ một con diều rất lớn, dùng bút thần nhúng mực điểm mắt cho
diều. Diều tự nhiên bay lên. Lập tức Biền cưỡi lên lưng và diều đưa ông vút lên
trên không. Sau đó Biền cưỡi diều vượt qua muôn trùng núi sông, sang đến nước
Nam.
Trên lưng diều, Biền đưa mắt xuống t́m huyệt đất quư. Quả nhiên không bao lâu
hắn t́m thấy ở gần một con sông, cứ như bây giờ là sông Trà Khúc tỉnh Quảng Ngăi,
một huyện đất phát đế vương. Huyện đất ấy quư không đâu bằng mà lại chỉ trong
một ngàn ngày là phát. Đó là một cái hàm con rồng lấp dưới nước mà chỉ có con
mắt của Biền mới khám phá được. Từ đó, Biền có ư muốn hưởng một cuộc sống sung
sướng xa xỉ vào bậc nhất thiên hạ. Nhưng khi nghĩ lại th́ hắn rất tiếc là không
có con trai mà thân ḿnh th́ đă già mất rồi, nếu được làm vua cũng không hưởng
được mấy nỗi. Biền mới tính sẽ nhường cho con rể. Nếu nó làm vua th́ ông bố vợ
của nó tất được bồi phần trọng đăi, mà ḍng dơi của con gái ḿnh cũng được hưởng
kết quả tốt đẹp đó. Nhưng muốn thực hiện cần phải giữ hết sức bí mật, nếu không
sẽ mất đầu như chơi. Nghĩ vậy, hắn trở về Trung Quốc bảo người rể đào lấy hài
cốt của cha nó đem sang nước Nam để cải táng.
Trong việc này hắn chỉ bàn kín với một người học tṛ của ḿnh mà thôi. Nhưng người
học tṛ mà hắn tin cậy lại muốn miếng đất quư ấy hoàn toàn thuộc phần y hưởng,
nên khi được lệnh thầy mang hài cốt th́ hắn cũng đào luôn hài cốt của cha ḿnh
sang Nam.
Bấy giờ hàm rồng đang thời kỳ há miệng. Biền bảo học tṛ lặn xuống ném gói xương
vào giữa miệng rồng chờ cho nó ngậm lại hăy lên. Người học tṛ đem gói xương của
cha ḿnh đánh tráo vào, c̣n gói xương kia th́ bỏ một bên mép.
Xong việc đó, Cao Biền bảo người rể chọn năm giống lúa mỗi thứ một thúng mang
đến huyệt đất nói trên, sai đào đúng vào chỗ vai rồng thành năm cái huyệt. Mỗi
huyệt hắn sai rấm một thúng lúa rồi lấp đất lại thành năm ngôi mộ. Hắn giao cho
chàng rể một ngàn nén hương, dặn mỗi ngày thắp một nén, đúng hai năm chín tháng
mười ngày th́ tự khắc quân gia dưới huyệt nhất tề dậy cả. Dặn đâu đấy, Biền trở
về Trung Quốc.
Thời gian trôi qua. Hôm ấy chỉ c̣n mười ngày nữa là hết hạn công việc mà Cao
Biền đă dặn, th́ tự nhiên người con gái của hắn ở nước Nam đẻ luôn một lúc ba người
con trai mặt mũi kỳ dị. Vừa mới sinh ra, ba đứa đă biết đi biết nói: Một đứa mặt
đỏ tay cầm ấn, một đứa mặt màu thiếc, một đứa mặt màu xanh đều cầm dao sáng
quắc. Cả ba đức nhảy tót lên giường thờ ngồi, đ̣i đem quân để thu phục thiên hạ.
Người nhà ai nấy xanh mặt. Chỉ trong một buổi tiếng đồn rầm lên. Mọi người thấy
sự lạ đổ tới xem như đám hội. Người rể của Biền sợ quá, bảo vợ:
- Mày đẻ ra ma quỷ, nếu không sớm trừ đi th́ khó ḷng sống được với triều đ́nh.
Chẳng qua cha mày làm dại, nên mới sinh ra như thế.
Rồi đó hắn chém tất cả. Trong lúc bối rối, người nhà của hắn v́ lầm nên đốt tất
cả nén hương c̣n lại. Tự dưng đất chuyển động. Ở dưới năm ngôi mộ có tiếng rầm
rầm mỗi lúc mỗi lớn. Thế rồi nắp mộ tung ra, bao nhiêu quân gia dưới đó nhảy lên.
Nhưng v́ c̣n non ngày nên người nào người nấy sức c̣n yếu, đứng chưa vững, ai
nấy đều bổ nghiêng bổ ngửa, cuối cùng chết hết.
Lại nói chuyện Cao Biền chờ cho đến ngày hẹn mới cưỡi diều bay sang nước Nam. Nhưng
lần này diều bị ngược gió nên sang không kịp. Khi diều hạ cánh xuống th́ người
con rể đă phá hỏng mất công việc của hắn. Hắn bực ḿnh vô hạn. Và sau khi thấy
rơ câu chuyện, hắn rút gươm chém chết cả học tṛ lẫn rể.
Từ đó Cao Biền sinh ra chán đời, chả thiết ǵ nữa. "Không được ăn th́ đạp đổ".
Nghĩ thế, hắn thường cưỡi diều đi khắp nước Nam để ếm huyệt và phá tất cả các
long mạch. Ngay chỗ hàm rồng nói trên, hắn dùng phép chám đứt cổ con rồng đó đi.
Cũng v́ vậy mà ngày nay người ta nói nước sông Trà Khúc đỏ như máu là bởi v́ có
máu tự cổ con rồng chảy ra.
Đến Nghệ An, Biền thấy trên một ḥn núi mà ngày nay c̣n gọi là núi Đầu Rồng ở
sát bờ biển có huyệt đế vương. Hắn bèn làm bùa bằng gang đóng vào đỉnh núi. V́
thế đỉnh núi ấy từ đó trở đi không một cây cối ǵ mọc được.
Ở Thanh Hóa, Cao Biền cũng thấy có đất quư. Nhưng hắn thấy con rồng đó què một
chân, cho rằng nếu có phát đế vương th́ không thể phát to được. Cho nên hắn cho
diều đi thẳng không ếm nữa. Cũng v́ thế người ta nói mấy đời vua chúa trị v́ ở
nước Việt Nam đều phát tích ở Thanh Hóa.
Khi diều bay qua làng Thiên Mỗ (bây giờ là làng Đại Mỗ tỉnh hà Đông), Biền thấy
có cái giếng ở vệ sông mà bây giờ là Nhuệ Giang cũng có huyệt đế vương. Hắn bèn
cho diều hạ xuống là là sát mặt đất, đọan thuận tay nén luôn cây bút thần của
ḿnh xuống ḷng giếng đó. Người ta nói cây bút ấy sau rồi hóa thành một khúc gỗ
cắm chặt xuống đáy giếng. Không một ai dám động đến nó. Măi về sau trong làng có
một ông thám hoa có tính hiếu kỳ mới tâu vua xin hai con voi về kéo thử khúc gỗ
đó lên. Họ tết một chiếc thừng lớn; một đầu buộc vào khúc gỗ c̣n một đầu buộc
vào cổ voi. Nhưng khi voi cất bước th́ tự nhiên họ thấy những xóm làng bên cạnh
đất chuyển động ầm ầm, đồng thời nhà cửa phát hỏa tứ tung. Lần ấy ông thám đành
bỏ dở công việc v́ ông ta sợ con rồng bị đau giẫy giụa làm hại đến dân sự. Ngày
nay có cái đặc biệt là nước giếng ấy không bao giờ cạn. Mỗi khi nước trong,
người ta vẫn thấy có bóng khúc gỗ đen đen ở dưới.
Để tâng công với hoàng đế, Cao Biền vẽ bản đồ từng kiểu đất một rồi viết thành
sách ghi chú tinh tường đem dâng lên vua đường. Đại ư nói tất cả các mạch đất
quư nhất của nước Nam, hắn đều trấn áp xong. Duy có kiểu đất ở chỗ trung độ (tức
bây giờ là Hà Nội) th́ hắn đă sai đắp một cái thành gọi là thành Đại La để chặn
long mạch. Lễ trấn áp này hắn làm rất linh đ́nh và công phu. Trên ḥn núi ở xa
xa về phí bắc thành Đại La, hắn cho dựng một cái đàn tràng. Trong thành Đại La,
hắn sai nung một lúc tám vạn cái tháp bằng đất nhỏ. Nung xong, Biền huy động tám
vạn quân vai vác giáo, mũi giáo xóc một cái tháp, đi từ Đại La tiến đến núi. Vừa
đi họ vừa hô mấy tiếng "thống vận hoàng đế". Đến nơi đặt tháp xuống đỉnh núi rồi
tám vạn quân ấy lại nhất tề kéo về Đại La. Cũng v́ việc kỳ dị như thế nên núi ấy
từ đó mang tên là núi Bát Vạn.
Hoàng đế Trung Quốc đọc sách của Cao Biền lại càng khen ngợi hắn. Nhưng việc làm
của Biền bị nhân dân ở nước Nam rất căm phẫn. Họ lập tâm chờ dịp giết chết cho
bỏ ghét. Một hôm, Biền cưỡi diều bay vào miền cứ như bây giờ là Ninh B́nh. Ở đây
người ta chuẩn bị cung nỏ chờ khi diều của hắn bay qua là là mặt đất, là cả bao
nhiêu người nhất tề phóng tên. Diều bị găy cánh rơi xuống núi, Biền bị trọng
thương, sau đó phải dưa về Trung Quốc. Ḥn núi ấy ngày nay c̣n mang tên là núi
cánh diều, một trong ba ngọn núi ở gần trị sở Ninh B́nh.
Cao B́nh về nước được ít lâu bị thủ hạ giết chết. Người ta theo lời dặn của hắn
đem hài cốt chôn ở một cái g̣ cát ở mé biển miền Nam cứ như bây giờ thuộc tỉnh
Phú Yên. Ở đó mặc dầu sóng gió thổi mạnh thế nào đi nữa, cát ở mả cũng không bay
đi chỗ khác. Người đi thuyền qua đó vẫn gọi là mả Cao Biền.
Ngày nay chúng ta c̣n có câu Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non là ư nóng nẩy vội vàng
sẽ thiếu chu đáo, mà như thế th́ sẽ thất bại. |