Truyện Cổ Truyền Thuyết Việt Nam
 

Ngọc Trai, Giếng Nước

 

Thục Phán, sau khi Hùng Vương thứ 18 trị v́ đất nước, tiếp tục xưng vương, đặt tước hiệu là An Dương.

     An Dương Vương có người con gái tên gọi Mỵ Châu, thực là một trang giai nhân tuyệt sắc. Nàng được vua cha rất mực nâng niu, chiều chuộng, và lúc bấy giờ cũng đă bước vào tuổi lấy chồng.

     Là vị vua hết sức chăm lo đến việc triều chính, nên sau khi mở mang bờ cơi, An Dương Vương đă nghỉ ngay đến việc củng cố và pḥng thủ quốc gia, mà trước hết phải xây dựng một Kinh đô mới, để làm kế bền vững lâu dài.

     Thấy Phong Châu không thích hợp nữa, An Dương Vương t́m đến miền Cổ Loa (thuộc Đông Anh, Hà Nội ngày nay) để chọn đất xây dựng Kinh đô . Khi chọn xong, Ngài truyền lệnh đi khắp cả nước, triệu tập đinh tráng, thay phiên nhau về Cổ Loa đắp lũy xây thành.

     Thời ấy, v́ không hiểu kết cấu nền móng, lại chưa biết sản xuất gạch nung và sử dụng vôi vữa, nên thành xây đến đâu bị đổ đến ấy, v́ lượng đất quá lớn đă đè xuống nền đất mềm phía dưới.

     Cả triều đ́nh họp lại, nhưng chẳng ai t́m ra được kế sách ǵ. Nhà vua sai lập đàng tràng, rồi tự ḿnh trai giới đủ mười ngày, sau đó bày biện lễ vật cầu cúng.

     Nghi lễ thật trọng thể. Lễ vật thật chu đáo.Có đủ thịt tam sinh đến sôi chè, hoa quả và các thứ cao lương mỹ vị. Rượu bày ra lũ lượt hàng ṿ. Đèn nến thắp sáng trưng. Khói hương trầm nghi ngút.

     Nhà vua mặc đại lễ phục, tóc để xơa, chắp hai tay, nghiêm trang đứng trước đàn tràng, đọc lời cầu khẩn.

     Đêm hôm ấy, An Dương Vương nằm mộng, thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, đi từ phía biển lên, báo cho biết: Sáng mai sẽ có thần Kim Quy là sứ giả của thần Thanh Giang đến giúp.

     Sáng hôm sau, theo lệnh nhà vua, tất cả văn vơ bá quan cùng thị vệ đứng trực ở ngoài cổng thành. Đúng đầu giờ Th́n, từ phía biển, một rùa vàng rất lớn hiện ra, rồi vươn cao đầu, tiến vào. Bốn thị vệ vội vàng quỳ xuống, đặt chiếc mâm bằng đồng cực lớn cho rùa trèo lên, rồi khiêng vào trong trướng phủ.

     Nhà vua ra tận ngoài thềm để đón thần Kim Quy (rùa vàng) và thi lễ rất mực cung kính. Sau khi chủ khách tề tựu trong pḥng, thần lên tiếng trước:

     - Thành sở dĩ không xây cao được là do có nhiều loài yêu quái đến quấy phá. Ở dưới thủy cung, thấy dân chúng và quân lính mệt nhọc, lại có lời thỉnh cầu của nhà vua, nên Đức Thanh Giang đă phái tôi đến đây để trị giúp Ngài. Tôi sẽ v́ quân dân Âu Lạc mà ra tay tiểu trừ bằng hết lũ yêu quái này. Yêu quái diệt xong, chẳng mấy chốc nhà vua sẽ có thành tŕ thật như ư.

     An Dương Vương vô cùng mừng rỡ, sai đặt tiệc chiêu đăi thần thật đặc biệt, rồi đích thân dẫn thần đến ở trong một cung thật kín đáo đă được trang hoàng lộng lẫy. Trước khi chia tay, thần hẹn nhà vua sau ba ngày nữa sẽ quay lại.

     Trong ba ngày, thần Kim Quy đă làm ra không biết cơ man nào là bùa pháp! Chúng được xếp làm ba đống lớn xung quanh chỗ thần nằm. Đống thứ nhất, nhỏ nhất, xếp ở bên ngoài, được nhuộm màu đỏ. Đống thứ hai, ở giữa, nhiều gấp bốn lần, được nhuộm màu xanh. Đống thứ ba, ở trong cùng, lại nhiều gấp mươi lần của đống thứ nhất, được nhuộm màu vàng.

     Từ trước đến nay, có lẽ chưa ai khám phá ra được điều bí mật nằm ở bên trong mỗi đạo bùa pháp ấy! Tuy nhiên, nh́n bên ngoài có thể thấy chúng là h́nh vặn thừng, như những bùa pháp mà các thầy phù thủy, thầy cúng vẫn làm ngày nay. Chứa đựng bên trong bùa pháp có lẽ là chút vảy, chút móng hay một chút ǵ đó trong cỏ thể của thần, nhưng đó chỉ là những điều phỏng đoán. Chỉ biết trong ba ngày mà thần làm được nhiều bùa như vậy th́ quả là một kỳ tích!

     Đúng sáng thứ tư, An Dương Vương đến trước cung thất. Thần Kim Quy thong thả "bước" ra. Thần dẫn nhà vua ra khỏi trướng phủ, đến khu thành tŕ xây dựng cũ. Thần lắc đầu, rồi ra hiệu cho nhà vua theo ḿnh. Thần lại bảo nhà vua mang theo năm mươi lính hộ vệ, mỗi người ôm một bó cọc tre gồm năm mươi chiếc, đi theo. Hễ thần Kim Quy đi tới đâu là An Dương Vương và lính hộ vệ lại đi tới đó và được đánh dấu bằng những chiếc cọc.

     Hết ngày thứ nhất, thần và nhà vua trở về trướng phủ. Thần bảo nhà vua chuẩn bị một vạn cọc tre để đóng xuống bốn xung quanh những cọc đă đánh dấu. Mỗi cọc tre sẽ là một gốc tre già, thẳng và lớn, dài đúng năm thước (bằng 2m bây giờ), ở đầu dưới có vạc nhọc. Trước khi đóng xuống đất, bùa phép mầu đỏ sẽ được "yểm" vào trong đốt cuối cùng, ở chỗ có vạc nhọn.

     Từ ngày thứ hai trở đi, giai đoạn " thi công" lần nhất bắt đầu. Hàng vạn tráng đinh và binh lính đi làm cọc tre, rồi gánh đất đá đổ lên những phần đất đă đóng cọc. Chỏ ba ngày sau, mộ bức tường đất h́nh ṿng tṛn hiện ra.

     Giai đoạn "thi công" lần thứ hai liền được tiếp tục. Bốn vạn tráng đinh và binh lính được huy động làm bốn vạn cọc tre, ở phần vạn nhọn sẽ "yểm" bùa pháp màu xanh vào. Trong ba ngày này, thần Kim Quy lại dẫn An Dương Vương và hai trăm lính hộ vệ, mỗi người ôm một bó cọc năm mươi chiếc, đi theo. Hễ thần "đi" đến đâu, là nhà vua và quân lính lại đi tới đó, rồi cọc nhọn đánh dấu. Cọc tre đă "yểm" bùa màu xanh liền được đóng tiếp vào bốn xung quanh, rồi theo đó, đất đá lại được gánh, đổ xuống và nện chặt. Bảy ngày nữa, lại một tường h́nh tṛn, ở bên ngoài và ôm lấy bức tường lần trước hiện ra.

     An Dương Vương cho tráng đinh và binh lính nghỉ ngơi ba ngày đề lấy sức, chuẩn bị bước vào giai đoạn "thi công" lần cuối. Cũng trong ba ngày đó, đinh tráng và cả dân cúng nữa, lại được huy động thêm, v́ lần này số nhân lực sẽ phải cần đến rát nhiều.

     Đến ngày thứ tư, tức là ngày thứ mười sáu, kể từ khi bắt đầu "thi công", mười vạn tráng đinh, binh lính và dân chúng đă có mặt, mỗi ngựi làm một cọc tre có "yểm" bùa màu vàng. Trong lúc mọi người làm cọc th́ thần Kim Quy lại dẫn An Dương Vương cùng năm trăm lính hộ vệ vẫn mang theo mỗi người năm mươi cọc nhỏ, đánh dấu. Mỗi khi cọc nhỏ đóng xong, th́ cọc lớn có có "yểm" bùa, liềm được đóng vào bốn xung quanh, và đất đá cũng được đỗ xuống, nện chặt.

     Lần này, v́ số lượng nhiều gấp hai lần rưỡi lần thứ hai, nên thời gian "thi công" phải mất nhiều hơn. Nhưng cũng chỉ mười bốn ngày sau, búc tường đất thứ ba cũng hoàn thành, ở bên ngoài và bao quanh bức tường lần trước.

     Thế là thành đă được xây xong, v́ lũ yêu quái đă bị bùa pháp và cọc nhọn tiêu diệt rồi.! Tính ra, chỉ trong ṿng chưa đầy một tháng mà đă xây dựng được ba bức tường coa chu vi lớn như thế (có dấu vết c̣n lại đến ngày nay) th́ quả là một lỳ tích ở vào thời bấy giờ. Qua sự kiện này cũng c̣n có thể thấy thêm: quân dân ta trong thời kỳ nước Âu Lạc, khi cần th́ có thể tập trung được một lực lượng hùng hậu như thế nào.

     Thành lúc ấy chưa có tên gọi, v́ vùng đất Cổ Loa cũng chưa có tên, nhưng do có ba lớp tường đất, mà lớp bên trong, theo thứ tự, lại có hơn lớp bên ngoài, nên từ xa nh́n vào, thành giống h́nh một vỏ ốc khổng lồ. Tên "thành Ốc" do vậy mà có. Các nhà chép sử đời sau gọi và viết là "Loa thành" cho sang trọng hơn, nhưng thực ra chỉ là phiên âm từ từ Việt sang từ gốc Hán. Về sau này, khi vùng đất Cổ Loa có tên gọi, th́ thành cũng được mang tên là thành Cổ Loa.

     Khi xây thành xong, An Dương Vương vô cùng sung sướng, cho binh lính và dân chúng ăn mừng suốt ba ngày liền. Lại khoản đăi thần Kim Quy rất hậu t́nh và chu đáo. Thế nhưng cũng đă đến lúc phải chia tay. Nhà vua đặt tiệc thật lớn để tiễn thần, có đông đủ văn vơ bá quan cùng tham dự.

     Trong hai tiệc hệ trọng mà từ trước đến nay An Dương Vương vẫn thường bận tâm lo lắng, là xây thành và có vũ khí thật lợi hại, th́ một việc đă xong, nhưng c̣n việc kia, liệu có thể nhờ cậy thêm ở thần được chăng? V́ vậy, trước lúc chia tay, nhà vua đă nói với thần:

     - Thật muôn đội ơn thần, nếu không có thần cất công khó nhọc th́ dân cúng Âu Lạc này biết đến bao giờ mới có thể xây xong thành được. Tuy thế, nhưng chẳng dám dấu thần, nếu vạn nhất sau này có xảy ra giao chiến, quân giặc bủa vây đông đúc, tên nỏ trong thành bắn ra không xuể, th́ liệu có cách nào, xin thần cũng dạy bảo cho quân dân Âu Lạc được nhờ.

     Thần Kim Quy mỉm cười: Điều An Dương Vương lo lắng thần cũng đă biết từ lâu. Thần cúi xuống tước một chiếc móng vuốt ở mé bàn chân phải, đưa cho nhà vua bảo:

     - Nhà vua khỏi phải nói, ta cũng đă hiểu. Nay ta tặng nhà vua vật này để dùng làm lẫy nỏ. Chỉ cần đem nỏ có lẫy này bắn ra vài phát là phá tan được quân giặc. Tuy thế cũng không thể chủ quan, lơ là việc canh pḥng vàcủng cố lực lượng.

     An Dương Vương cung kính cúi đầu, rồi chấp hai tay lại vái thần, cử chỉ có phần c̣n rất lưu luyến. Thấy vậy, thần Kim Quy lại bảo:

     - Thôi, ta c̣n nhiều việc khác phải lo. Nhà vua hăy ở lại trong coi việc nước, cốt sao cho được trên thuận dưới ḥa. Nếu mai sau, rủi có xảy ra chuyện ǵ chẳng lành, th́ cứ gọi ba lần "Sứ giả Thanh Giang" là ta sẽ đến giúp.

     An Dương Vương và cả triều thần lại cung kính chắp tay, cúi đầu từ biệt. Thần Kim Quy thong thả quay trở ra phía biển.

     Nhà vua đưa chiếc vuốt đang cầm trên tay cho Cao Lỗ, viên Đại tướng phó tổng chỉ huy quân đội, bảo đi làm nỏ, tra lẫy đúng như lời thần đă dặn.

     Khi nỏ làm xong, đem ra bẳn thử, mỗi phát có đến hàng ngàn mũi tên vun vút bay đi. An Dương Vương vô cùng thích chí reo lên:

     - Thế là từ nay trở đi, ta chẳng có điều ǵ phải lo lắng nữa.

     Hồi ấy ở phương Bắc đang là cuối thời nhà Tần. Sau khi Tần Thủy Hoàng mất, Tần Nhị Đế lên thay, t́nh h́nh trong nước rối ren. Một viên tướng tài ba mưu lược đang trấn giữ phần đất phía Nam, tên gọi Triệu Đà, nhân cơ hội xưng Đế và lập ra nước NamViệt, vị trí ở phía Bắc nước Âu Lạc. Để chuẩn bị lực lượng đương đầu với "Trung nguyên" nếu cần, Triệu Đà mở mang bờ cơi xuống phía Nam, bằng việc bất ngờ cất quân sang đánh Âu Lạc.

     Quân Triệu Đà ùn ùn kéo đến, vây kín xung quanh mấy lớp Loa Thành.

     Sắp saÜn nỏ thần ở giữa cửa chính, chờ khi quân địch kéo vào vừa tầm, An Dương Vương hạ lệnh cho Cao Lỗ giương tên bắn. Hàng ngàn mũi tên vun vút lao ra, quân giặc chết như ngă rạ.

     Ở phía sau, Triệu Đà cung kiếm ḥ hét, đốc thúc lính liều chết xông vào, hết lớp này đếân lớp khác. Nhưng từ phíaLoa Thành, từng loạt tên lại nối tiếp bay ra, khiến cho quân giặc xác chồng lên xác, không thể tiến thêm một bước.

     Triệu Đà vô cùng tức tối, nhưng thấy t́nh thế không thể làm ǵ được, bèn hạ lệnh cho các tướng rút binh.

     Về nước, Triệu Đà xuống lệnh an dân, rồi lập tức cho quân cơ mật giả làm thường dân, sang ḍ la tin tức bên Âu Lạc. Hai tháng sau, bọn lính này đă về báo cho Triệu Đà đầy đủ các tin tức.

     Triệu Đà tính rằng, bên phía Âu Lạc có Loa Thành kiên cố, quân lính canh pḥng nghiêm mật, lại có thứ vũ khí lợi hại là nỏ thần, th́ trước mằt y không thể làm ǵ được. Vậy th́ sẽ dùng kế, mà kế hay nhất lúc này chỉ là có thể giả vờ cầu ḥa. Bởi thế, kh nghe tên lính bẩm báo tới việc An Dương Vương có con gái đến tuổi lấy chồng, và tục lệ của Âu LaÏc, con trai phải ở rể bên nhà vợ trong ṿng ba năm đầu, th́ y vô cùng mừng rỡ, nét mặt hớn hở, miệng luôn lẩm bẩm " Thời cơ đến rồi! Thời cơ đă đến với ta rồi!"

     Triệu Đà cũng có một người con trai đă lớn, tên gọi Trọng Thủy. Chẳng cần suy nghĩ lâu la, y đă định ngay ra mưu kế. Ấy là việc y sẽ cho Trọng Thủy sang Âu LaÏc xin giảng ḥa và cầu hôn, ở lại Trọng Thủy sẽ t́m hiểu những việc quân cơ rồi t́m cách triệt phá nỏ thần, sau đó, y sẽ cất sang đánh.

     Đă thừa hiểu kế sách này chẳng mới mẻ ǵ, và cũng chẳng dễ dàng lừa được triều đ́nh Âu Lạc. Tuy thế, suy đi tính lại, y thấy chẳng có cách nào hay hơn.

     "Điểm mấu chốt của kế sách này phải chiếm được ḷng tin của đối phương, bởi vậy, những người thực hiện phải thật mềm mỏng, khéo léo, lại phải thật kín đáo, kiên tŕ nhẫn nhục.

     Thời đấy, thời Đông Chu Liệt Quốc vừa qua, chẳng đă có chuyện Phù Sai, Câu Tiễn đó sao? Dùng khổ nhục kế đến như Câu Tiễn, th́ ai gặp cũng phải mủi ḷng rồi bị mắc lừa, chứ chẳng cứ ǵ Phù Sai."

     Nghĩ vâïy, Triệu Đà sai chuẩn bị lễ vật thật hậu hĩnh, lại chọn một viên quan văn khôn ngoan, lọc lơi nhất làm sứ giả. Đoạn y cho gọi viên quan này cùng Trọng Thủy đến để bàn soạn, giao nhiêïm vụ. Xong xuôi, chính tay Triệu Đà viết biểu cầu ḥa, lời lẽ thật khiêm nhường, một mực xin lỗi về việc đă xảy ra can qua, rồi cuối cùng, xin An Dương Vương đại xá, cho Trọng Thủy ở lại làm giai tế để được đêm ngày hầu hạ dưới gối, ngơ hầu từ nay hai nước ḥa hiếu đời đời ...

     Để thật chắc chắn, trước hôm sứ giả và Trọng Thủy lên đường sang Âu Lạc, Triệu Đà c̣n cho gọi hai người lại, dặn đi dặn lại từng ly từng tí mới thôi.

     Nói cho đúng, Trọng Thủy không phải là kẻ có đủ nhẫn tâm để thi hành quỷ kế này, như ở phần kết cục sẽ rơ. Tuy vậy, dẫu là cha con, nhưng c̣n là đạo quân thần, nên mặc dù trong bụng không muốn, Trọng Thủy vẫn phải lên đường.

     Khi lính canh vào báo có sứ giả của Nam Việt muốn vào ra mắt, th́ An Dương Vương và các đại thần c̣n trên bàn tiệc. Từ ngày đánh quân Triệu Đà tan tác đến nay, nhà vua cho rằng không có kẻ địch nào dám đụng tới Âu Lạc, nên thỉnh thoảng lại bày ra tiệc tùng hoặc đi săn, để vui chơi cho thỏa thích. Nay nghe nói sứ giả Nam Việt đến, nhà vua cho la chuyện chẳng đáng bận tâm, nhưng Đại tướng Cao Lỗ đă đứng dậy nói:

     - Tâu Bệ hạ. Thần nghe nói Triệu Đà là kẻ túc mưu đa trí, y phái người đến chắc là đă có quỷ kế. Xin Bệ hạ cho đuổi sứ giả đi để tránh hậu họa.

     An Dương Vương cả cười bảo Cao Lỗ ngồi xuống, rồi đáp:

     - Ừ, cứ cho là Triệu Đà đă có quỷ kế, nhưng sức hắn th́ làm ǵ được ta? Nếu ta đuỏi sứ giả, e sẽ bị hắn chê là hẹp lượng. Thôi cứ để cho chúng vào, xem ăn nói thế nào. Vả lại, ta cũng muốn cho chúng thấy thế nào là oai phong của triều đ́nh Âu Lạc, để chúng c̣n về mà bảo nhau đừng đến nḥm ngó nữa.

     Nói đoạn, An Dương Vương sai thiết triều. Sứ giả Nam Việt và Trọng Thủy được dẫn vào, dâng lên tờ biểu do chính tay Triệu Đà viết. Lại đang lên rất nhiều lễ vật của phương Bắc. Cử chỉ của hắn thật nhũn nhặn, cung kính. Lời lẽ của hắn thật ngọt ngào lễ phép.

     Sau khi đọc xong tờ biểu, An Dương Vương ngắm nh́n Trọng Thủy: Một chàng trai khôi ngô, nho nhă, cử chỉ nói năng lễ độ. Lại là con trai trưởng của Triệu Đà. Nhà vua gật đầu tỏ ư hài ḷng rồi cho lính hầu dẫn hai người về pḥng riêng tạm nghỉ.

     Nhà vua hỏi ư kiến các triều thần. Lần này lại Cao Lỗ đứng dậy nói trước:

     - Tâu Bệ hạ. Theo ư thần, đây là kế lừa gạt của Triệu Đà. Ta nên đuổi chúng về và không nhận lễ vật.

     Các triều thần khác cũng lần lượt đứng lên. Tựu trung ư kiến chia làm hai phía: nhận và không nhận.

     An Dương Vương ngồi im lặng, chú ư lắng nghe. Trong thâm tâm nhà vua, khi tiếp sứ giả và trông thấy Trọng Thủy, Ngài đă thiên về bên nhận. Nhà vua là người rất mực chiều chuộng con gái nên cũng muốn t́m cho nàng một nơi xứng đáng: Hoàng hậu của nước láng giềng. Lại nữa, hai nước ḥa hiếu th́ cũng tránh được nạn binh đao. C̣n nếu vạn nhất xảy ra chiến tranh th́ lúc ấy, chỉ càn vài phát nỏ thần ... Nghĩ vậy, nhà vua đứng dậy phán:

     - Ta đă nghe rơ lời các khanh, bên nào cũng đều có lư đúng cả. Nay Nam Việt là nước lớn, lại đích thân Triệu Đà viết biểu cầu ḥa và cho con tai trưởng cầu hôn, thế là đủ biết kẻ địch đă biết lễ độ, chịu bước nhún nhường. Ta nhận cho họ cũng là cía đạo của nước lớn. Nhược bằng, nếu họ trở mặt th́ sức ta đây cũng chẳng ngại ǵ. Chúng sẽ phải tơi bời như lần trước ...

     Các quan cúi đầu lạy tạ. Nhà vua ra lệnh băi triều. Mấy hôm sau, khi chọn được ngày lành, nhà vua sai chăng đèn kết hoa, chuẩn bị tiệc tùng để cho con giá sánh duyên cùng Trọng Thủy.

     Trở thành giai tế nước Âu Lạc, trong thời gian đầu, trong ḷng Trọng Thủy khấp khởi mừng thầm. Y được vua cha, mẫu hậu đối xử thâm t́nh, coi như con đẻ. Lại được công chúa Mỵ Châu yêu mến cũng thực hết ḷng. "Thế là trúng kế của Nam Việt Vương rồi", y thầm nghĩ. Nhưng ngặt v́ lúc ấy, triều đ́nh Âu Lạc hăy c̣n cảnh giác. Lại nữa, bản thân y, nếu có muốn hành động th́ cũng chưa thông tỏ đường đất, làm sao có thể điều tra các việc quân cơ và đánh tráo nỏ thần ngay được? Y đành phải chờ thời cơ thêm vậy.

     Và thời cơ ấy luôn luôn vẫn cứ đến, ngày mỗi thêm gần. An Dương Vương cho y được dự các buổi tiệc tùng, đi săn. Mẫu hậu cũng thường đến vấn an. Mỵ Châu coi y là người chồng "lư tưởng", mười phân vẹn mười. C̣n các đại thần, lúc đầu nhiều vị cũng xét nét, nhưng về sau cũng quen mặt y dần ...

     Thế nhưng, lúc này lại chính là lúc Trọng Thủy thấy công việc mà y được giao phó, là khó thực hiện hơn lúc nào hết.Mọi người ở đây đối xử với y thân t́nh, độ lượng như vậy, làm sao y có thể phản bội họ được? Xứ sở này là quê hương thứ hai của y, c̣n thân thuộc hơn cả nơi y đă sinh ra, làm sao có thể để cho nạn can qua dày xéo? Không phải là kẻ nhẫn tâm như Triệu Đà, nên Trọng Thủy thấy thực khó xử. Những cơn vui buồn thất thường, do vậy, thường đến với y. Dưới cái vẻ nho nhă bề ngoài, trong ḷng y lúc nào cũng là một cơn giông băo.

     Tuy ngồi ở nhà, nhưng Triệu Đà vẫn luôn luôn biết những hành vi của Trọng Thủy tại Kinh đô Âu Lạc, qua tin tức của nhiều tên "sứ giả" đi quà cáp thăm hỏi về bẩm báo. Những lần đầu y thấy hài ḷng, nhưng càng về sau, thấy thời hạn sắp hết mà Trọng Thủy chưa có điều tra ǵ quan trọng, lại chưa đánh tráo được nỏ thần, th́ y thấy thực sự sốt ruột. Viết một bức mật thư lời lẽ thật gay gắt, giục phải hành động ngay lập tức, Triệu Đà giao cho một tên "sứ giả" nữa lên đường.

     Khi nhận được bức mật thư này, Trọng Thủy thấy vô cùng choáng váng. Đây là thời điểm t́nh cảm của y và công chúa Âu Lạc đang vào giai đoạn mặn nồng. Thế rồi ... nhiều ngày, đêm tự đấu tranh, dày ṿ, giằng xé, cuối cùng Trọng Thủy vẫn thấy phải đi theo con đường mà cha y đă lựa chọn, bởi v́ dầu sao quân lệnh cũng là như sơn!

     Trong khi đó, bên phía triều đ́nh Âu Lạc, vẫn chẳng ai hay bết ǵ về bức mật thư, cũng như những điều đă diễn ra trong ḷng Trọng Thủy. Y được tự do đi lại khắp nơi trong Loa Thành. An Dương Vương chẳng mấy lúc không cho y cặp kè, c̣n Mỵ Châu th́ hoàn toàn tin tưởng, biết được điều ǵ cũng nói cho y biết cả, và thế là, thời điểm bị "đánh tráo nỏ thần" đă sắp đến gần ...

     Nguyên tướng quân Cao Lỗ, một vị tướng dũng cảm, tài ba và cương trực, từ trước đến nay là phó chỉ huy quan đội, là cánh tay đắc lực, thân cận nhất của An Dương Vương th́ vẫn luôn đề cao cảnh giác. Ngay từ đầu, Ngài đă biết quỷ kế của Triệu Đà, kịch liệt phản đối cuộc hôn nhân Nam Việt Âu LaÏc, và khi sự việc đă "lỡ" rồi, tức là Trọng Thủy đă ở lại Loa Thành th́ Ngài vẫn theo dơi từng nhất cử nhất động của y. Khi thấy Trọng Thủy có những biểu hiện đáng ngờ, như việc tự do đi lại trong Loa Thành hay vô cớ xuất hiện ở những nơi tháp cao ... th́ Ngài đem điều dị nghị của ḿnh nói lại với An Dương Vương, nhưng nhà vua khoát tay bảo rằng, chẳng cần phải đề pḥng kỹ càng đến như thế.

     Đến khi thấy mối quan hệ giữa An Dương Vương và Trọng Thủy càng ngày trở nên khắng khít th́ Ngài giận dữ, tỏ ư khó chịu ra mặt, và điều này làm phật ư nhà vua. Mối t́nh cảm thâm giao giữa ho, ngoài mối quan hệ vua tôi, v́ thế, cũng đă đến hồi kết thúc.

     Một hôm, ngay giữa triều đ́nh, tướng quân Cao Lỗ đă nói thẳng những suy nghĩ của ḿnh, yêu cầu (tất nhiên là dưới dạng tâu tŕnh) nhà vua không nên để Trọng Thủy được tự do đi lại và lúc nào cũng được cận kề. Nhưng vừa nghe thấy như thế, An Dương Vương đă nổi trận lôi đ́nh. Ngài lớn giọn quát mắng Cao Lỗ là đồ vô lễ dám sàm tấu, rồi sau đó, hạ lệnh cách chức, lột mũ áo, đuổi thẳng về quê.

     Hỡi ôi là số phận của viên tướng tài da dũng cảm, lúc nào cũng môït ḷng một dạ trung thành với sơn hà xă tắc! Bị nhục đến như thế th́ thử hỏi c̣n mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa? Bởi vậy, ngay lập tức, Ngài rút gươm ra khỏi vỏ, rồi đưa chéo một đường qua cổ và ngă vật xuống ...

     Sau khi Cao Lỗ chết, An Dương Vương cũng có phần hối hận, Ngài không cho Trọng Thủy được cặp kè như trước, nhưng nghi ngờ y th́ Ngài vẫn hoàn toàn không. Bởi vậy, nỏ thần, từ trước đến nay do tướng quân Cao Lỗ giữ, th́ bây giờ, Ngài trao nó lại cho Mỵ Châu. An Dương Vương chỉ sinh có mỗi Mỵ Châu là phận gái, vậy nhà vua có thể trao vật đó cho ai, ngoài người con gái được nâng niu và thân cận nhất của Ngài?

     Khi biết Mỵ Châu đang nắm trong tay bảo vật quốc gia th́ Trọng Thủy đối xử với nàng cũng tận tụy hơn lúc nào hết. Đây chính là thời điểm sau khi y nhận được bức mật thư, rồi tự đấu tranh, hạ quyết tân thực hiện bằng được lời quân vương giao phó.

     Do Mỵ Châu đă thực sự tin tưởng, chẳng mảy may nghi ngờ, nên y cũng chẳng khó khăn ǵ, khi được nàng cho xem bảo vật. Rồi nàng c̣n truyền cả cho y cách thức làm nỏ, tra lẫy, cách làm tên và cách bắn. Là con gái một của vua Âu Lạc, vốn xuất thân vơ biền, th́ việc Mỵ Châu am hiểu và sử dụng thành thạo cung nỏ, cũng là điều hiển nhiên dễ hiểu.

     Vốn là kẻ sáng dạ, khéo tay, nên những ngày Mỵ Châu vắng nhà để đi săn bắn cùng vua cha. Trọng Thủy đă chế tạo xong một chiếc lẫy nỏ giả, giống y như thật. Đoạn, y đem tháo chiếc lẫy thật ra khỏi nỏ, và lắp lẫy giả vào. Sau đó, ngay lập tức, y phá hủy tại chỗ chiếc lẫy thật, rồi xóa hết mọi dấu vết. Công việc xong xuôi, y thở phào nhẹ nhơm. Đến lúc Mỵ Châu đi săn bắn trở về, y ra tận cổng đón, giọng điệu cử chỉ c̣n ngọt ngào, ân cần hơn cả mọi ngày.

     Chỉ mấy ngày sau, tin tức về công việc hệ trọng nhất mà Trọng Thủy tiến hành ở triều đ́nh Âu lạc xong xuôi, đă về dến tai Triệu Đà. Y vô cùng mừmg rỡ, rồi vội nhẩm tính: C̣n gần một năm nữa mới đủ thời hạn ba năm để Trọng Thủy gửi rể trở về.

     Bản thân Triệu Đà trong ḷng lúc nào cũng nung nấu ư đồ thôn tính Âu Lạc, nên y muốn Trọng Thủy về nước ngay để tiện việc xuất binh, bởi vậy y nghĩ ra một mưu kế khác, ấy là kế giả ốm ...

     Một hôm, có viên sứ giả Nam Việt đến triều đ́nh Âu Lạc dâng lên tờ biểu: Triệu Đà đang ốm nặng, xin An Dương Vương cho Trọng Thủy về nước gấp để nghe di mệnh. Tờ biểu lời lẽ vô cùng lâm li thống thiết, do viên quan tài giỏi nhất của triều đ́nh Nam Việt thảo ra, ở dưới có chữ kư run rẩy của Triệu Đà và dấu quốc ấn vuông đỏ chót.

     Sau khi đọc xong tờ biểu, An Dương Vương rồi cả triều đ́nh Âu Lạc chẳng một ai tỏ vẻ nghi ngờ. Khi tin ấy được báo tới Trọng Thủy, thấy y thở dài thườn thượt, lại nước mắt dàn dụa, th́ mọi người lại càng tin là thực.

     Nhưng sự thực th́ hoàn tàn ngược lại. Trọng Thủy biết đây là kế lừa gạt đă được mật báo trước, và mấy hôm nay, trong ḷng y lúc nào cũng thấy thấp thỏm không yên. Y biết sự việc này thế nào rồi cũng đến, bởi vậy khi ngồi soát xét lại toàn bôï cuộc t́nh duyên với nàng công chúa Âu Lạc, thấy nàng mười phân vẹn mười, th́ y bắt đầu hối hận. Nàng yêu thương y và y cũng thực sự yêu thương nàng. Bởi vậy, nếu như được quyền lựa chọn th́ chắc chắn y sẽ ở lại với nàng, ở lại măi măi xứ sở tươi đẹp và giàu ḷng hiếu khách này. Càng nghĩ y càng thấy buồn bă, bối rối. Bởi vậy, khi hay tin có sứ giả chính thức đến, th́ y cầm ḷng chẳng được, nước mắt lă chă tuôn rơi. Y khóc cho cuộc chia ly sắp tới gần ...

     Tuy vậy, là trang nam nhi, lại là người rồi sẽ kế vị ngai vàng, nên Trọng Thủy không thể than khóc như đàn bà, con gái. Y hắng giọng cho thật hết xúc động, lại sửa cả tư thế, trang phục cho thật chững chạc, rồi vào bệ kiến An Dương Vương, xin được về nước để túc trực bên người cha đau yếu ... Lời tấu tŕnh của Trọng Thủy được An Dương Vương và cả triều đ́nh Âu Lạc chấp thuận. Mỵ Châu lúc ấy cũng có mặt. Nàng xin phép vua cha cho được về Nam Việt cùn chồng. Nhà vua đang phân vân th́ một vị đại thần đă đứng dậy tham kiến:

     - Tâu bệ hạ. Thần trộm nghĩ theo lẽ thường th́ phận nữ nhi là phải theo chồng. Nhưng phong tục của Âu Lạc ta, lấy vợ phải gửi rể đủ ba năm, lúc ấy người vợ mới được theo về nhà chồng. Nhưng nay thời hạn ấy chưa đến, nếu ta cho công chúa về th́ bàn dân thiên hạ chắc sẽ nh́n vào, c̣n đâu là thể thống quấc gia. Vả lại, lúc này chưa biết bệnh t́nh Nam Việt Vương thế nào. Nếu Ngài qua khỏi th́ Trọng Thủy về ít bữa rồi lại sang đây, công chúa đi theo rồi quay về làm ǵ cho mệt. C̣n nếu NamViệt Vương có mệnh hệ nào, Trọng Thủy sẽ được nối ngôi. Lúc ấy đường đường là nhà vua đi đón Hoàng hậu, nghi lễ chắc sẽ đầy đủ hơn nhiều ... Dám mong bệ hạ minh xét.

     An Dương Vương vừa gật gật đầu: Lời tâu ấy quả nhiên hợp ư Ngài: Con gái Ngài đă sắp sửa trở thành Hoàng hâïu! Ngài an ủi Mỵ Châu mấy câu, rồi bảo nàng hăy nán ḷng chờ. Đoạn, Ngài sai chuẩn bị xe cộ, hành lư để Trọng Thủy lên đường về nước. Ngài cũng không quên sai chuẩn bị lễvật thật chu đáo để làm quà tặng cho Nam Việt Vương.

     An Dương Vương vừa dứt lời th́ Trọng Thủy đă phủ phục đầu xuống đất lạy tạ, đoạn y xin phép về nhà riêng để từ biệt vợ. Lúc chỉ c̣n hai người, vẻ trang trọng nam nhi của y hoàn toàn biến mất, để thay vào đó là vẻ mặt ủ rủ héo hon. Y sụt sùi khuyên vợ hăy nán ḷng chờ, nhưng trong thâm tâm th́ y hiểu giờ phút vĩnh biệt đă điểm.

     Y biết chỉ ít bữa nữa chiến tranh nhất định sẽ xảy ra, nhưng y lại muốn sẽ c̣n gặp được Mỵ Châu vẹn toàn sau cuộc chiến kết thúc. Y mân mê chiếc áo lông ngỗng mà sứ giả, theo mật kế của Triệu Đà, vừa mới mang sang đây. Y hoàn toàn hiểu đây là chiếc áo oan nghiệt, chiếc áo sẽ giúp cho quân Triệu Đà t́m ra dấu vết của An Dương Vương, nhưng lại nói với Mỵ Châu những lời hệt như viên sứ giả đă dặn:

     - Sắp đến mùa đông rét mướt rồi, tôi xin gửi nàng chiếc áo ấm này, nàng hăy vui ḷng ở lại. Đường xá xa xôi cách trở nhưng chẳng lúc nào ḷng tôi nguôi quên nhớ nàng. Vạn nhất nếu có sự chẳng lành, sau này đi tới đâu, nàng hăy nhớ nhổ từng chiếc lông vứt xuống. Ấy là dấu vết để tôi t́m gặp lại nàng.

     Tuy mưu kế đă được sắp đặt từ trước, nhưng vừa nói nước mắt Trọng Thủy vừa lă chă tuôn rơi. Mỵ Châu vừa khóc cũng vừa ghi nhớ những lời chồng căn dặn, hoàn toàn không mảy may nghi ngờ một điều ǵ.

     Vừa thấy lính canh vào báo Trọng Thủy đă về đến trước kinh thành, lập tức Triệu Đà hạ lệnh xuất quân tiến đánh Âu Lạc. Lúc Trọng Thủy lên đường cầu hôn cũng là lúc Triệu Đà bắt tay vào việc chuẩn bị xe cộ, thuyền bè, lương thực và tuyển mộ thêm binh lính. Mộng làm bá chủ của một giang sơn rộng lớn không lúc nào khuây, khiến cho y chẳng thể để chậm trễ thêm ,dù chỉ lấy một phút. Mấy hôm nay Triệu Đà hối hả chuẩn bị xuất binh. Y tính rằng việc tiến đánh Âu Lạc ngay lúc này, sẽ có hai điều lợi lớn: An Dương Vương bị bất ngờ và Trọng Thủy đă được an toàn.

     Trong khi ấy, bên phía triều đ́nh Âu Lạc, từ nhà vua dến quan lại và binh lính, chẳng một ai hay biết điều ǵ. Họa chỉ có tướng quân Cao Lỗ, nhưng lúc ấy Ngài cũng mồ yên mă đẹp rồi.

     Khi quân canh pḥng biên giới chạy về cấp báo, th́ An Dương Vương và triều đ́nh đang c̣n mải mê săn bắn. Nhà vua vội vàng thúc ngựa hối hả chạy về Kinh đô , nhưng tất cả đều đă muộn. Tại các vị trí then chốt, đă thấy lố nhố quân Nam Việt, c̣n phía Âu Lạc, quân tướng vẫn chưa sắn sàng chiến đấu. An Dương Vương hạ lệnh mang nỏ thần ra giữa cửa chính bắn như lần trước, nhưng khi chuẩn bị xong, th́ quân Nam Việt đă tới bao vây dày đặc. Một viên tướng trẻ thay Cao Lỗ trước kia, lắp tên và giương nỏ lên bắn, nhưng sau tiếng "Pựt", chỉ thấy có một mũi tên lao đi.

     "Nỏ thần mất linh ứng rồi", bên phía Nam Việt, quân lính vừa hô vừa ồ ạt xông lên, đông như kiến cỏ. Trong t́nh thế vô cùng khẩn cấp, An Dương Vương đang trên ḿnh ngựa liền tuốt kiếm dẫn các tướng sĩ xông ra, đánh giáp lá cà. Quân Âu Lạc địch không nổi vội vă quay đầu tháo chạy.

     Nhưng tại các vị trí khác, quân Âu Lạc, do không kịp pḥng thủ đă bị quân Nam Việt dùng thang trèo lên tường thành, tấn công vào. Nhiều vị trí bị thất thủ. Quân Nam Việt từ nhiều hướng, tràn vào nội thành. An Dương Vương cùng các tướng sĩ vội quay đầu ngựa, trở về cứu ứng, nhưng không kịp. Thế trận đă nghiêng hẳn về phía Nam Việt.

     Tại cửa chính, rồi nhiều cửa khác, quân Nam Việt tiếp tục tràn đến. An Dương Vương cùng các tướng sĩ tả xung hữu đột, nhưng vẫn không cứu văn nổi t́nh thế. Nhà vua vội thúc ngựa phi thẳng vào nội cung, lúc ấy Mỵ Châu vẫn c̣n chưa hết bàng hoàng, đang ngồi ôm chiếc lông ngỗng. Thường ngày, nàng là người con gái vui tươi, linh hoạt, thỉnh thoảng cũng cưỡi ngựa khoát cung tên theo vua cha đi săn bắn, nhưng mấy hôm nay, do nỗi nhớ chồng nên nàng buồn bă, ngồi một ḿnh. An Dương Vương dừng ngựa bảo con gái:"Theo ta", và khi thấy nàng đă ngồi ở đằng sau th́ Ngài quay trở ra, múa kiếm xông vào quân địch. Các tướng sĩ, từ năy vẫn đang chiến đấu, thấy vậy vội vă thúc ngựa lại, rồi cùng ngài hợp sức để phá ṿng vây.

     Quả nhiên, không có tên tướng nào bên Nam Việt có thể địch lại lưỡi kiếm của An Dương Vương. Ngài phi ngựa tới đâu là quân giặc phải giăn ra tới đó. Các tướng sĩ theo Ngài cũng chiến đấu vô cùng dũng cảm. Ṿng vây bị phá. An Dương Vương cùng các tướng phi ngựa hướng về phía nam.

     Lúc ấy trời bắt đầu tối. Quân Nam Việt ḥ hét đuổi theo, nhưng được một hồi sau th́ mất dấu vết. Theo lệnh Triệu Đà, chúng đốt đuổi rồi đem soi khắp các ngă đường, hễ chỗ nào có lông ngỗng rơi xuống, là chúng lại ḥ hét chạy tới. Cứ như thế, cuộc rượt đuổi kéo dài đến hết đêm. Ngày hôm sau, rồi những ngày sau cuộc ruợt đuổi vẫn c̣n tiếp tục. An Dương Vương thấy vậy, bèn hạ lệnh cho các tướng lĩnh tản đi mỗi người mỗi hướng, để đánh lạc hướng quân địch. Nhưng lạ thay, khi chỉ c̣n lại hai cha con Ngài, th́ ngoảnh lại, ở phía xa xa, vẫn thấy quân Nam Việt đang ḥ hét xông tới. Nghĩ lại phải phóng ngựa chạy tiếp ...

     Lúc ấy, có lẽ đă đến ngày thứ mười, sau nhiều ngày đêm vất vả, đói khát, hai cha con An Dương Vương đă chạy tới ngang dăy núi Mộ Dạ (thuộc Diễn Châu, Nghệ An bây giờ) ở sát bờ biển. Ngay lập tức, Ngài hiểu rẳng địa giới nước Âu Lạc chỉ c̣n lại mấy bước chân. Ngoảnh lại, nhà vua thấy quân Nam Việt vẫn c̣n đang truy đuổi. Tự biết ḿnh đă thế cùng lực kiệt, chẳng c̣n cách nào để khôi phục giang sơn, lại nhớ đến lời dặn của Thần Kim Qui trước kia, Ngài bèn hô to lên ba lần :"Sứ giả Thanh Giang", để chờ hiển ứng.

     Ngay lập tức mặt biển ở trước mắt Ngài bỗng nổi lên những quầng sóng lớn, rồi Thần Kim Quy sừng sững hiện ra. Thần cất tiếng, nói như ra lệnh :

     - C̣n chờ ǵ nữa, quân giặc đang ở ngay sau lưng nhà vua đó!

     An Dương Vương chợt như sực tỉnh. Ngoảnh lại, nhà vua thấy chiếc áo Mỵ Châu vẫn mặc nay đă xác xơ, và một bên tay nàng, vẫn c̣n giữ lại mấy chiếc lông ngỗng. "Hóa ra con gái cưng chiều rước giặc đuổi theo cha ḿnh là thế này đây ", cơn giận giữ của Ngài bỗng chốc lên đến cực điểm. Ngài quắc mắt, rảy Mỵ Châu xuống chân ngựa, miệng thét lớn "Đồ phản bội", rồi vung kiếm chém ngang thân nàng. Mỵ Châu gục xuống chết ngay tại chỗ, chẳng kịp một lời trăn trối, giăi bày.

     Thần Kim Quy đă chứng kiến tất cả. Thần hiểu rằng An Dương Vương kiêu dũng có thừa, nhưng chưa đủ cơ trí để gánh vác quốc gia. Thần thương cho quân dân Âu Lạc, vất vả biết bao để xây dựng Loa Thành, lại vất vả biết bao để rèn đúc vũ khí, chế tạo, cung nỏ ... vậy mà, rút cục, vẫn c̣n thiếu một bậc minh quân. Thôi, đành chờ đến cơ hội khác vậy. Nghĩ vậy, thần gật đầu cho An Dương Vương theo ḿnh, rồi quay ra ngoài khơi, rẽ nước thành một đường lớn , để nhà vua phóng ngựa theo sau.

     Trọng Thủy cùng một tốp lính, lần theo dấu lông ngỗng, chạy đuổi theo Mỵ Châu là để cốt được gặp nàng, c̣n việc bắt An Dương Vương, y hoàn toàn không mong muốn. Cứ mỗi lần t́m thấy dấu vết, Trọng Thủy lại khấp khởi mừng thầm, nhưng cũng mỗi lần như thế, bọn lính lại ḥ nhau đuổi tiếp để tranh công, mà y không có cách ǵ ngăn cản được.

     Đến chân núi Mộ Dạ, ở ngay chỗ giáp biển, Trọng Thủy thấy xác nàng Mỵ Châu cùng chiếc áo lông ngỗng xác xơ nằm giữa vũng máu, th́ y hiểu rằng niềm hy vọng thế là đă hết. Trọng Thủy vội vă nhảy xuống ngựa, ôm lấy xác nàng, vừa vật vă vừa rống lên những hồi thảm thiết. Bọn lính tần ngần đứng lại, rồi sau khi hiểu rơ, chúng lựa lời an ủi và giúp y khâm liệm cho nàng. Đoạn, tất cả đoàn người ngựa quay đầu, phi nước đại theo hướng bắc, mang theo xác nàng Mỵ Châu bất hạnh.

     Ḍng dă chục ngày sau, đoàn người ngựa mới về tới Loa Thành. Khi nhận được tin, Triệu Đà dẫn đoàn tùy tùng ra tận ngoài cổng thành để đón. Sau khi Trọng Thủy tấu tŕnh về việc An Dương Vương mất tích, chỉ c̣n t́m thấy xác nàng Mỵ Châu, th́ Nam Việt Vương trong ḷng vô cùng hả hê, nhưng ngoài miệng y lại thốt ra những lời lâm ly, thống thiết. Y lại sai làm lễ an táng thật trọng thể cho Mỵ Châu, mà trong thâm tâm, y coi như một ân nhân, nhưng trên thực tế nàng lại hoàn toàn không phải như vậy.

     Sau lễ an táng Mỵ Châu, Trọng Thủy sống vật vờ như kẻ mất hồn. Y hiểu rất rơ y là một kẻ phản bội.

     Nhớ lại những ngày tháng êm đềm ở triều đ́nh Âu Lạc, được vua cha, mẫu hậu, triều thần sủng ái, y thấy hổ thẹn trong ḷng. Đối với họ, y chỉ c̣n là một kẻ hèn hạ nhuốc nhơ ghê tởm. Nhớ đến nàng Mỵ Châu lộng lẫy, yêu kiều, người con gái hết ḷng yêu thương và chung thủy với y đến tâïn giờ phút chót, y lại càng thêm đau xót. Chính y đă đẩy nàng vào cái chết thảm khốc. Lại cũng chính y, v́ y, mà khi chết đi, nàng c̣n phải chịu tiếng là kẻ phản bội lại xứ sở của ḿnh. Càng nghĩ, Trọng Thủy càng cảm thấy cuộc đời y chỉ c̣n là nhục nhă, chẳng mặt mũi nào để sống trên đời. Đối với y, giờ đây mỗi hiện vật, mỗi kỷ niệm như một lời nguyền rủa. Một lời nguyền rủa nặng nề như trái núi, c̣n lại đến muôn đời.

     Chiếc ngai vàng mà mai sau y sẽ được kế vị kia, chỉ là chiếc ngai vàng đẫm máu, là hiện thân của sự phản trắc, lừa gạt. Bởi v́ đă chẳng có lương tri thanh thản của một con người, th́ càng ở trên cao sẽ càng cảm thấy chông chênh nguy hiểm, v́ mọi người đều nh́n vào với cặp mắt nghê tởm.

     Càng nghĩ, Trọng Thủy càng chỉ thấy hận thêm Triệu Đà, một người cha thật tàn nhẫn, quỷ quyệt, đă đẩy y vào nông nỗi này. Thành quách, bạc vàng châu báu mà làm chi, khi t́nh yêu và lương tri đều bị cướp mất? Trọng Thủy âm thầm vật vă suốt mấy ngày trời, không ăn uống, không chuyện tṛ với ai. Mấy ngày sau, người ta t́m thấy xác y ở một cái giếng trong Loa Thành. Y đă lấy cái chết để rửa nỗi nhục.

     Cuộc đao binh Nam Việt Âu Lạc cuối cùng đă dẫn đến việc Triệu Đà mở đường cho sự cai trị của phương bắc gần suốt một thiên niên kỷ, gây ra biết bao đau khổ cho mọi người ta. Trong thời gian ấy, nhiều cuộc khởi nghĩa đă nổ ra, mà cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là một sự khởi đầu ...

     Bài học cảnh giác cụ thể sau sự kiện Trọng Thủy đến đất Âu lạc có lẽ là việc tục gởi rể từ đó đă không c̣n ở cộng đồng của người Việt. Tuy vây, câu chuyện t́nh Mỵ Châu - Trọng Thủy lại được hậu thế lưu truyền như một sự cảm thông. Rốt cuộc, họ cũng chỉ là những nạn nhân của một mưu đồ đầy tham tàn, bạo ngược.

     V́ Mỵ Châu vô t́nh bị chết oan nên máu của nàng, theo nước mưa rồi chảy xuống biển, đă kết thành ngọc ở trong ḷng những con trai, do ăn phải. Người ta bắt được những con trai ấy, đem tách lấy ngọc, nhưng màu sắc lấp lánh chưa thấy hiện rơ lên nhiều.

     Nhớ đến cái giếng mà Trọng Thủy tự tử ở Loa Thành, người ta đem múc nước giếng lên để rửa ngọc, th́ lạ thay, tất cả sắc màu của ngọc đều rực sáng lấp lánh, như có thêm một vẻ đẹp mới mẻ, diệu kỳ.

     Thế là từ đó trở đi, hễ ai lấy được ngọc trai, lại đem về múc nước ở giếng Loa Thành lên để rửa cho đẹp. Về sau, để cho tiện, người ta múc nước ở giếng Loa Thành cho vào các chai, lọ, rồi đem đến những nơi có ngọc. Những khách phương bắc sang buôn ngọc ở nước ta từ thời Triệu Đà, đă rất thành thạo về việc này, nên đi đến đâu, họ cũng kè kè một lọ nước lấy từ giếng Loa Thành, để rửa và thử ngọc.

     Những chuỗi ngọc trai được chế tác tại phương nam, từ xưa, đă rất làm vừa ḷng các hoàng hậu, công chúa và cung tần mỹ nữ của các triều đ́nh phương bắc. V́ vậy, trong các đồ cống nạp của nước ta trước kia, bao giờ cũng có ngọc trai và các hũ nước lấy từ giếng ở Loa Thành. Việc cống nạp nước giếng Loa Thành, mới nghe tưởng chuyện lạ, nhưng hóa ra lại có thật, được ghi cả vào Đại Việt sử kư toàn thư. Măi đến cuối thời Lê, việc cống nạp ấy mới bị bă bỏ, do công của Nguyễn Công Hăng, một vị chánh sứ tài ba.
     Truyền thuyết Ngọc trai Giếng nước này, hay c̣n gọi Mỵ Châu - Trọng Thủy, có phần liên quan dến truyền thuyết Loa thành mà chúng tôi đă thử đồng tái hiện, từ trước đến nay dă được nhiều thế hệ nhắc tới, cảm xúc, phẩm b́nh. Dưới đây, chỉ xin chọn một bài thơ (theo điệu vân thê) của th sĩ Tản Đà (1888 - 1939) mà chúng tôi cho là thể hiện đạt nhất mối thương tâm của mọi người với hai nhân vật Mỵ Châu Trọng Thủy:
Môït đôi kẻ Viêït người Tần,
Nửa phần ân ái, nửa phần oán thương,
Vuốt rùa chàng đổi máy,
Lông ngỗng thiếp đưa đường,
Thề nguyền phu phụ,
Ḷng nhi nữ,
Việc quân vương,
Duyên nọ t́nh kia dở dở dang,
Nệm gấm, vó câu,
Trăm năm giọt lệ,
Ngọc trai giếng nước,
Ngh́n thu khói nhang.
Chúng tôi cũng băn khoăn tự hỏi: Bây giờ khi dùng ngọc trai liệu có ai c̣n đem nước giếng Loa Thành để rửa nữa không? Lại nữa, trải qua mấy ngàn năm lịch sử, không biết ngọc trai và giếng nước ấy có c̣n linh thiêng như xưa nữa không?

     Nhưng cho dù có câu trả lời như thế nào, th́ cái c̣n lại muôn đời vẫn cứ là truyền thuyết về ngọc trai nước giếng, mà mỗi người mỗi thế hệ đều có thể tưởng tượng và tái hiện lại những cách thức riêng của ḿnh.