Hai Bà Trưng Trắc, Trưng Nhị là hai chị em ruột, con gái vị Lạc tướng ở
huyện Mê Linh (nay là vùng Sơn Tây cũ và tỉnh Vĩnh Phú), thuộc ḍng dơi Hùng Vương.
Hai Bà là những phụ nữ tài cao đức trọng và có đảm lược hơn người. Năm 19
tuổi, bà Trưng Trắc kết duyên cùng ông Thi Sách, con trai Lạc tướng huyện Chu
Diên (nay là Hà Nam và Nam Hà), cũng là một người bất khuất, có ư chí quật cường.
Thuở ấy, dân ta sống dưới ách đô hộ của người Hán vô cùng cực khổ.
Nhà Đông Hán chia nước ta thành quận huyện. Đứng đầu mỗi quận là một viên
Thái thú người Hán, c̣n dưới mỗi huyện phần lớn vẫn để các Lạc tướng người Việt
trông coi, theo chính sách "dùng tục cũ mà cai trị".
Nhưng "dùng tục cũ" cũng chỉ là cái vỏ và chẳng được bao lâu. Bọn cai trị
vốn ḷng tham không đáy, càng ngày càng vươn dài cánh tay xuống bên dưới bóp hầu
bóp cổ dân ta. Nào xuống biển ṃ ngọc trai, lên rừng săn sừng tê, ngà voi. Rồi
tô, thuế. C̣n chiếm cả đất lập trang trại. Lại độc chiếm luôn sản xuất và buôn
bán muối ...
Các Lạc tướng cũng bị đối xử tàn tệ. Hạch sách, ṿi vĩnh, cấm đoán, xỉ mắng
đủ điều.
Hai gia đ́nh Lạc tướng thông gia với nhau , vốn căm thù sâu sắc bè lũ xâm
lược, cùng nhau bàn định rồi chuẩn bị lực lượng, tập hợp dân chúng, rèn đúc vũ
khí ... Nhưng sắp đếùn ngày khởi nghĩa th́ công việc bại lộ. Thi Sách bị viên
Thái thú Tô Định tàn ác, kẻ mới sang thay Tích Quang, giết chết.
Không hề nao núng, Hai Bà Trưng vẫn tiếp tục sự nghiệp mà Thi Sách đă để
lại. Tháng 3 năm 40 (theo dương lịch), Hai Bà phất cờ khởi nghĩa ở Mê Linh.
Trước đó trên mọi miền đất nước, đă có những cuộc nổi dậy lẻ tẻ. Nay nghe
tin hai Bà, vốn là ḍng Hùng Vương dấy nghiệp, đều nhất tề đứng lên, Mê Linh đă
trở thành nơi tụ nghĩa của đồng bào cả nước.
Từ Mê Linh, nghĩa quân tiến đánh Luy Lâu (thuộc Thuận Thành, Hà Bắc) là thủ
phủ của chính quyền Đông Hán ở Giao Chỉ. Thành Luy Lâu bị hạ, Tô Định phải cắt
tóc cạo râu, ăn mặc giả làm con gái, t́m đường lẻn trốn về Nam Hải (thuộc Quảng
Tây, Trung Hoa).
Từ Luy Lâu, nghĩa quân tiến đánh nhiều phủ huyện khác, phối hợp với lực lượng
nổi dậy ở các địa phương. Bọn quan lại ở Đông Hán hoảng sợ, có nơi mới chỉ nghe
tin nghĩa quân đang đến, đă phải bỏ lại cả của cải, ấn tín, giấy tờ ... để cốt
chạy tháo thân về nước.
"65 huyện thành", nghĩa là toàn bộ nước ta hồi đó đă sạch bóng quân xâm lược.
Bà Trưng Trắc được tất cả các tướng sĩ và quân lính suy tôn lên làm vua, đóng đô
ở Mê Linh. Bà Trưng Nhị và các tướng lĩnh khác đều được phong tước, chia nhau ra
giữ các miền xung yếu. Hai năm liền, mọi người cả nước được miễn tất cả các khoản
sưu thuế.
Đất nước độc lập, nhưng tính về so sánh lực lượng giữa ta và địch th́ hăy
c̣n quá chênh lệch. Sau khi thống nhất Trung Hoa, tất cả các chư hầu xung quanh
đều phải phục tùng nhà Hán, và đế chế Hán lúc bấy giờ ở vào thời kỳ thịnh đạt nhất
của nó.
Tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa và xưng vương đă làm chấn động cả vương triều
Hán. Hán Quang Vũ vô cùng tức giận, lập tức hạ lệnh bắt các quận miền Nam (Trung
Hoa) lo trưng tập binh mă, sắm sửa thuyền bè khí giới, sửa sang đường sá, tích
trữ lương thảo ... để chuẩn bị đánh chiếm lại nước ta.
Tháng 4 năm 42, vua nhà Hán phong Mă Viện làm "phục ba tướng quân" đem hai
vạn quân cùng hai ngh́n thuyền xe, vừa thủy vừa bộ, từ Hợp phố (Quảng Đông) tiến
thẳng vào vùng Lăng Bạc (Tiên Sơn, Hà Bắc). Mă Viện là viên tướng già có nhiều
mưu gian kế hiểm, và thuộc vào loại sừng sỏ nhất của nhà Hán thời đó. Một tay y
đă từng đánh dẹp người Khương và đàn áp các cuộc khởi nghĩa trong nước.
Hai Bà Trưng cùng các tướng lĩnh xuất phát từ Mê Linh xuống Lăng Bạc chống
giặc. Tại đây một cuộc chiến đấu ác liệt đă diễn ra. Cuối cùng quân ta yếu thế
hơn phải rút lui về Cẩm Khê (Yên Lạc, Vĩnh Phú). Mă Viện đem quân đuổi theo. Tại
Cẩm Khê và các vùng lân cận lại diễn ra nhiều cuộc chiến đấu ác liệt nữa, kéo
dài gần một năm sau. Hai bên đều bị hao binh tổn tướng. Nhưng quân giặc do đông
hơn, lại có nguồn chi viện thường xuyên, c̣n quân ta lực lượng ít hơn, lại bị chặn
các nẻo đường tiếp tế. Cuối cùng, do lực lượng quá chênh lệch, quân ta đă thất
bại.
Khi chạy tới vùng cửa sông Hát, thấy không c̣n cứu văn nổi t́nh thế được
nữa, Hai Bà Trưng thà chết chứ nhất định không chịu rơi vào tay giặc, đă cùng nhảy
xuống sông tự tử. Đó là ngày mồng 6 tháng 2 Âm lịch, (Dương lịch là tháng 3 năm
43).
Các tướng lĩnh khác như các bà Lê Chân, Thánh Thiên, Bát Nàn ... ở các mũi
chiến đấu khác, khi sức cùng lực kiệt, cũng đều tự vận theo gương Hai Bà.
Cuộc khởi nghĩa chính đă thất bại, nhưng tại nhiều nơi khác, quân ta vẫn
c̣n tiếp tục chiến dấu. Măi tới tháng 11 năm 43 Mă Viện vẫn c̣n phải mở đường
qua Tạc Khẩu (Yên Mô, Ninh B́nh) để vào quận Cửu Chân (Bắc Trung Phần) đàn áp tướng
Đô Dương.
Hai Bà Trưng là những hậu duệ trực tiếp của các vua Hùng, c̣n mẹ của Hai Bà,
bà Man Thiện, cũng là cháu chắt bên ngoại của vua Hùng. Bà góa chồng sớm nhưng
đă nuôi dạy hai con gái thành những trang anh hùng kiệt xuất, mở đầu cho lịch sử
chống ngoại xâm vẻ vang của dân tộc. Khi hai con gái và con rể chuẩn bị khởi nghĩa,
bà đă không quản đường xa mệt mỏi, đi lại khắp nơi để hẹn ước với nghĩa quân các
địa phương. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng sở dĩ mau chóng thắng lợi là v́ các
lực lượng trong nước đều nhất tề đứng đậy một lần, làm cho quân giặc trở tay
không kịp. Với danh nghĩa là vợ một vị Lạc tướng lẫy lừng, đă đảm đang quán xuyến
mọi công việc sau khi chồng chết, nên lời nói của bà được mọi người trong nước
tin tưởng và hưởng ứng nhiệt liệt.
Hiện nay ở làng Nam Nguyễn thuộc Huyện Ba V́ (Hà Tây) c̣n ngôi mộ của Bà mà
mọi người trong vùng vẫn gọi là mả Dạ. "Dạ" là tiếng Việt cổ, để chỉ một bà già
được kính trọng.
Thiên Nam ngữ lục, áng sử ca dân gian cuối thế kỷ thứ 17, đă ghi lại lời Bà
Trưng Trắc trên đàn thề trước nghĩa quân ở Mê Linh để chuẩn bị xuất trận như sau:
Một xin rửa sạch nước thù Hai xin nối lại nghiệp xưa họ Hùng Ba kẻo oan ức ḷng
chồng Bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này. Đó là tính chất chính nghĩa của cuộc
khởi nghĩa, là ư chí nguyện vọng của cả dân tộc lúc bấy giờ.
Các tướng lĩnh trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng có rất nhiều, đặc
biệt, phần lớn là các tướng nữ.
Theo điều tra chưa đầy đủ hiện nay ở nhiều làng thuộc Bắc Phần và Bắc Trung
Phần có thờ thần Thành Hoàng nguyên là các tướng lĩnh của Hai Bà Trưng ngày trước
như:
-Bà Lê Chân ở Hải Pḥng.
-Bà Bát Nàn ở Thái B́nh.
-Bà Thánh Thiên, Diệu Tiên, Vĩnh Huy, Liễu Giáp, Ả Tắc, Ả Di ở Hà Bắc.
-Bà Bảo Chân, Nguyệt Thai, Nguyệt Độ ở Hải Hưng.
-Vợ chồng Đào Lư, Nàng Tía, Quốc Nương, Khỏa Ba Sơn, Ông Đống, Ông Nà, ở
ngoại thành Hà Nội.
-Chu Thước, Đỗ Năng Tế, Hoàng Đạo, Liên Quang Cai ở Hà Tây.
-Ba anh em họ Trương ở Quảng Ninh.
-Năm mẹ con bà Lê Thị Hoan ở Thanh Hóa, v.v ...
Nhân dân Tày, Nùng ở Việt Bắc đến nay vẫn c̣n nhớ nhiều truyền thuyết về tổ
tiên xưa của họ đă từng tham gia vào cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.
Từ bao đời nay, Hai Bà Trưng đă trở thành biểu tượng cho ḷng yêu nước, ư
chí quật cường bất khuất của toàn dân tộc.
Ở Hà Nội, Hà Tây, và nhất là ở Vĩnh Phú, đều có lập đền thờ Hai Bà.
Tên của Hai Bà được đặt cho quận, đường phố, và trường học khắp cả nước ... |