Truyện Cổ Truyền Thuyết Việt Nam
 

Đền Cờn

 

Đến đời Trần Nhân Tông, đạo Phật ở nước ta đă bước vào giai đoạn cực thịnh. Chùa chiền mọc lên khắp nơi, từ Kinh đô đến thôn xóm, từ đồng bằng đến trung du và các miền ven biển. Ngay bản thân nhà vua, sau hai lần lănh đạo kháng chiến chống giặc Nguyên thắng lợi, vào các năm 1285 và 1292, cũng nhường ngôi lại cho con, rồi xuống tóc đi tu, trở thành vị Tổ thứ nhất của phái Tu thiền Trúc lâm với pháp danh Điều Ngự. Số người tu hành của thời đó rất đông. Nhiều người xuất gia từ bé, nhưng nhiều người đă từng lập gia đ́nh rồi do trắc trở nhân duyên, nên mới t́m đến cửa Phật. Trong trường hợp ngược lại, nhiều vị tu hành nhưng do những hoàn cảnh đặt biệt nào đó đưa đẩy, đă hoàn tục trở lại, th́ điều ấy, xét ra cũng là lẽ thường t́nh mà nhà sư trụ tŕ ở ngôi chùa cửa Cờn là một ví dụ.
Thuở ấy ở xă Hương Cần huyện Quỳnh Lưu ( Nghệ An ) bây giờ, có một ngôi chùa dựng trên một ḥn đảo nhỏ ở cửa Cờn. Tiếng là chùa nhưng kiến trúc c̣n đơn sơ, chỉ là ngôi nhà lá ba gian ở khuất hướng gió biển và bên trong đặt vài pho tượng Phật. Trụ tŕ trong chùa là một vị sư ông ở độ tuổi ngoài bốn mươi và một chú tiểu nhỏ giúp việc. Hai thầy tṛ t́nh nguyện ra đây, vừa tu hành nhưng cũng để vừa giúp đỡ những người đi biển gặp nạn v́ đảo cũng thường xuyên là nơi tránh băo của dân chài.

     Nhà sư vốn xuât thân là một nho sinh, đă từng liều chơng đến trường thi, nhưng do không đỗ lại gia cảnh sa sút nên cũng đành xếp bút nghiên, để gởi ḿnh vào cửa Phật. Ở nơi đảo vắng, quanh năm chỉ nghe tiếng sóng vỗ bờ, lương thực chính yếu do dân chài ghé qua cung cấp, tưởng cũng là nơi tốt nhất để có thể dứt bỏ bụi trần một cách thực hiệu nghiệm. Vừa tu luyện vừa năng giúp người cứu người, quả là một điều kiện lư tưởng cho một vị tu hành muốn mau đắc đạo. Nào ngờ sự đời cũng thật lắm nỗi éo le, không thể lường trước được. Khi mà nhà sư đang c̣n là một con người khang kiện, buổi thiếu thời đă từng xây dựng nhiều mộng ước đẹp cho tương lai, th́ việc có bị "nhuốm" lại bụi trần, âu cũng là điều cần được thể tất, như ở phần sau này sẽ rơ.

     Thời ấy ở Trung Hoa, nhà Kim sau khi diệt xong nhà Bắc Tống liền cho viên tướng là Trương Hồng Phạm đi đánh úp quân Nam Tống ở Nhai Sơn. Quân Nam Tống đại bại. Quân Kim thừa thắng đang ào ạt tràn tới Kinh đô , triều đ́nh Nam Tống thật vô cùng nguy ngập. Nhiều vị đại thần đă phải tự sát. Trong t́nh thế ấy, viên Tả thừa tướng Lục Tú Phu vội vă hộ giá nhà vua vừa mới lên ngôi là Đế Bính xuống thuyền để đi lánh nạn. Cả hoàng cung, các triều thần và gia quyến của họ cũng vội vă xuống thuyền. Quân hồi vô lệnh, tất cả quân lính và tướng sĩ thấy thế cũng ùa cả theo. Thuyền bè chưa kịp chuẩn bị, lại có quá nhiều người đeo bám, nên ra đến ngoài khơi, gặp phải một cơn băo không phải lớn lắm mà tất cả thuyền bè đều bị đắm. Nhà vua, hoàng hậu, các đại thần ... Thẩy cũng đều chung số phận ...

     Chỉ có ba mẹ con một vị phu nhân, vốn là công chúa con gái út của đời vua trước, may mắn thoát nạn nhờ cùng bám vào một cây cột buồm lớn. Vị phu nhân cũng khá lanh lợi, đă biết kịp lấy dây ở cột buồm buộc vào người, cho ḿnh và cho hai con gái, nên đă không bị sóng biển đánh bật đi. Cả ba mẹ con cùng chiếc cột buồm theo luồng nước, trôi măi về biển phương Nam, dạt đến bên ngoài vùng cửa Cờn, nơi có ḥn đảo, ngôi chùa và nhà sư trụ tŕ , như đă nói ở phần trước.

     Buổi sáng hôm ấy, ở cửa Cờn, cơn băo cũng đă ngớt. Nhà sư, như thường lệ sau khi xảy ra băo, đă ra phía đông ḥn đảo để nh́n xem sự thể thế nào, th́ bỗng thấy có những vật ǵ trôi ở phía xa xa. Đoán là có người bị băo nên nhà sư quay lại lấy mảng rồi vội vă trèo đi cứu nạn. Chú tiểu lúc này vừa mới thức dậy, đang quét dọn trong chùa. V́ nghĩ chú c̣n bé quá, nên nhà sư cũng không gọi đi theo.

     Khi mảng chèo tới nơi th́ nhà sư nhận ra ba người phụ nữ, trong đó hai người c̣n nhỏ và một người là thiếu phụ. Chắc họ là ba mẹ con, nhà sư đoán như vậy. Không nề hà, nhà sư vội vă kéo từng người lên mảng rồi cho mảng trở mũi vào bờ. Lúc này, cả ba người hoàn toàn bất tỉnh, như ba cái xác không hồn, mặt mũi chân tay tím tái, chỉ c̣n thoi thóp thở. Qua quần áo và cách trang điểm đầu tóc, lại đeo đầy vàng bạc, nên nhà sư hiểu họ đều là người quư tộc.

     Giữa thanh thiên bạch nhật, trong khi đưa chiếc mảng nhỏ vào bờ, ba người phụ nữ dường như thỏa thân hoàn toàn ở ngay dưới mặt nhà sư, do quần áo quá mỏng bị nhúng nước đă bó sát lấy người. Và lần đầu tiên trong đời , nhà sư nh́n thấy một thân h́nh khác giới ở độ tuổi trưởng thành, nằm như vậy. Những cảm giác bấy lâu dường như yên ngủ trong ḷng nhà sư bỗng nhiên đều như bừng thức. Nhà sư cố dùng lư trí để ḱm nén, nhưng vô hiệu. Những cảm giác ấy trổi dậy một cách tự phát, nằm ngoài sự kiểm soát của lư trí. Lư trí của nhà sư chỉ có khỏi tỉnh táo để giữ cho ḿnh khỏi có những hành vi quá trớn, những hành vi tội lỗi, c̣n sự trổi dậy của những cảm giác ấy cũng đành chịu, và nó làm cho máy chèo của nhà sư khua lên loạn xạ, phải một lúc lâu sau mới lấy được thân bằng.

     Vừa chèo mảng, nhà sư vừa phải nhắm mắt để khỏi nh́n thấy cảnh tượng phía trước, nhưng chỉ được một lúc, đă thấy máy trèo khua không thật hướng, nên lại phải mở mắt ra. Ba khuôn h́nh vẫn mở ra trước mặt. Nhà sư vẫn đưa mắt đi hướng khác, nhưng cũng chẳng được bao lâu, v́ nhận ra mảng đă chệch ra hướng bờ, nên cuối cùng lại đành phải nh́n thẳng. Và v́ nh́n thẳng như vậy, nên ba khuôn h́nh phụ nữ vẫn luôn luôn ở ngay trước mắt. Thật trớ trêu, bởi v́ chỉ c̣n cách ấy mới có thể đưa mảng về đúng đích. Nhà sư thấy bàng hoàng cả người, cho rằng con mắt ḿnh đă phạm vào giới luật, và trong cơ thể đă có những đ̣i hỏi tội lỗi. Vừa khua mảng, nhà sư vừa tự lên án, xỉ vă bản thân ḿnh, nhưng mặc dù vậy, những ǵ mà nhà sư nh́n thấy cứ c̣n lưu măi trong đầu óc, mà không cách ǵ có thể tẩy xóa đi được.

     Hơn một tiếng đồng hồ sau mảng mới cập vào đảo. Nhưng hơn một tiếng đồng hồ ấy cũng đủ để làm nhà sư bải hoải c̣n hơn cả chục năm khổ công tu luyện. Tuy vậy, lư trí nhà sư vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Ông gọi gấp chú tiểu và hai thầy tṛ bế từng người vào nhà bếp ở mé cạnh Phật điện. Ba cơ thể vẫn hoàn toàn bất tỉnh, lạnh ngắt, hai mắt nhắm nghiền, chỉ có nhịp thở thoi thóp là c̣n dấu hiệu của sự sống. Cần phải sưởi ấm cho họ gấp. Nhà sư cùng chú tiểu vội lấy củi nhóm lửa, nhưng khi ngọn lửa bùng lên th́ họ nhận thấy không thể cứ để ba người như thế mà sưởi được. Quần áo dài bằng lụa mỏng không thể đặt cạnh lửa v́ lụa rất dễ bốc cháy. Vả lại họ cũng cần phải được lau qua bằng nước ngọt th́ mới có thể sưởi, v́ nếu không, lớp muối bám vào bên ngoài sẽ làm cho cơ thể họ bỏng rát. Không c̣n cách nào khác, nhà sư đành phải quyết định cởi quần áo của họ và gỡ các đồ trang sức ra, để lấy khăn tẩm nước ngọt lau qua, rồi đem quần áo dự trữ của ḿnh và của chú tiểu mặc vào cho họ. T́nh trạng ba cơ thể phụ nữ lần lượt khỏa thân hoàn toàn trước mắt cả hai thầy tṛ, tuy là một hành động, nhưng quả thực đă gây thêm hậu quả tai hại về mặt tâm lư với hai thầy tṛ, và nhất là, đối với nhà sư. Những ǵ mà cặp mắt nh́n thấy và hai bàn tay cảm nhận đuợc, sẽ c̣n lưu giữ, và sẽ làm phương hại đến quăng đời tu hành của nhà sư kể từ đó trở đi, nó làm cho nhà sư đă không thể b́nh thản được như trước nữa.

     Tuy vậy, đấy là những điều tiếp tục xảy ra về sau này, c̣n bây giờ, hai thầy tṛ đang phải chú ư vào việc "vần" từng người quanh đống lửa để sưởi ấm cho đều. Gần một tiếng đồng hồ th́ ba người phụ nữ mới hồi tỉnh, mắt đă he hé mở và nhịp thở cũng mạnh dần lên. Họ đă được cứu sống.

     Nhà sư bảo chú tiểu đi bắc một niêu cháo, c̣n tự ḿnh cũng đi ra vườn hái lá tía tô, đem rửa rồi thái nhỏ. Khi cháo chín, nhà sư trộc lá tía tô vào, rồi cùng chú tiểu ngồi bón cho họ ăn. Ăn gần xong niêu cháo, ba người đă b́nh phục trở lại, tuy sức hăy c̣n rất yếu và trong người c̣n rất mệt mỏi.

     Họ nh́n nhà sư, chú tiểu trong phong cảnh, và hiểu rằng đây là nơi tu hành. với những cặp mắt đờ đẫn nhưng tŕu mến, môi họ khẽ mấp máy nói những lời như thể cảm ơn. Tuy nghe mà không hiểu ǵ v́ ngôn ngữ bất đồng, nhưng nhà sư cũng gật gật đầu, tỏ ư tán thưởng. Ông dùng ngón tay trỏ viết mấy chữ lên không khí, thấy người thiếu phụ nh́n theo và gật gật đầu trở lại. Thế là ông bảo chú tiểu đi lấy giấy bút và nghiên mực ra để họ "bút đàm". Sau cuộc bút đàm, nhà sư hoàn toàn biết rơ xuất xứ và hoàn cảnh của họ.

     Những ngày sau đó, ba mẹ con người thiếu phụ ăn nghỉ tại chùa, trong gian buồng của nhà sư và chú tiểu khi trước. C̣n hai thầy tṛ th́ phải ngủ ngay tại nhà thờ Phật. Những ngày này, lại nằm trong mùa biển động nên dân chài thường ở nhà đan lưới, chẳng có mấy ai ra khơi, và do thế, cũng không có thuyền nào ghé vào đảo. Nhà sư phải dùng mảng vào bờ mấy làn để t́m mua lương thực, thực phẩm. Tuy vậy, tin tức về ba người phụ nữa lâm nạn được cứu sống th́ chưa lần nào ông tṛ chuyện với ai. Ông chần chừ chưa quyết định bởi v́ những ngày này, trong ḷng ông đă thực sự xảy ra một cơn giông băo. Vả lại, nếu ông có quyết định sớm, th́ trong t́nh trạng sức khỏe như hiện tại, cả ba mẹ con cũng không thể vào đất liền ngay được.

     Sau khi lại sức và nhận rơ hoàn cảnh hiện tại, người thiếu phụ, tuy buồn rầu nhưng vẫn luôn tỏ ra là một phụ nữ yêu kiều, duyên dáng. Ba mẹ con nàng cùng chú tiểu lo việc bếp núc, c̣n những lúc rănh rỗi th́ thủ thỉ ngồi chuyện tṛ bằng thứ ngôn ngữ riêng của họ. Cả hai thầy tṛ đều nghe nhưng không hiểu ǵ, tuy vậy, sự lạ lùng cũng có sức hấp dẫn riêng của nó.

     Nếu trước kia, chỉ có hai thầy tṛ th́ không khí trong chùa lúc nào cũng có vẻ trang nghiêm, thậm chí hơi buồn tẻ, c̣n bây giờ, do sự xuất hiện của ba mẹ con, nên vẻ trang nghiêm ấy đă hết, để thay vào đó, là sự sum họp đầm ấm, tựa như không khí một gia đ́nh. Nhất là những lúc tất cả cùng ngồi xung quanh mâm cơm, bây giờ đă có cả thức ăn cá, th́ bầu không khí gia đ́nh ấy lại càng hiện lên rơ rệt. Nhà sư nh́n mọi người bằng cặp mắt tŕu mến, động viên ba mẹ con hăy gắng ăn cho mau lại sức, và trong ḷng ông cũng hiện về những ư nghĩ, những t́nh cảm mà bấy lâu nay đă từng bị gh́m nén và bị lăng quên. Ông nhớ lại thuở bé thơ của ḿnh được quây quần cùng chị cùng anh xung quanh bố mẹ. Ông cũng nhớ lại hồi c̣n trai trẻ ông đă từng mơ ước có một gia đ́nh thật đầm ấm và vui vẻ, mà sau đó, chỉ do thời thế đưa đẩy, bất đắc dĩ ông mới phải chọn con đường tu hành.

     Trong thâm tâm, ông hoàn toàn thương cảm cho số phận của ba mẹ con người thiếu phụ. Cơi ḷng của họ đă thực tan nát mà chỉ có những ai hoàn toàn thông cảm và thương yêu họ mới có thể cứu văn được và mang lại cho họ một chút niềm vui. Ông nhận thấy t́nh cảm của ông đă dành cả cho mẹ con nàng và ông muốn được chia sẻ số phận cùng với họ.

     Ông nhớ lại ba thân thể gần như khỏa thân nằm sơng soài trên mảng. Ba thân thể ấy lại khỏa thân hoàn toàn khi ông cùng chú tiểu lau người và mặc quần áo cho họ. Đấy những việc bất đắc dĩ và trong khi làm ông không có một hành vi lợi dụng nào, nhưng tuy vậy, bây giờ nhớ lại, và cảm nhận số phận đă đẩy đưa ông sang một hướng khác, không thể tiếp tục cuộc đời tu hành được nữa.

     Ông thấy ḿnh đă bị "nhuốm" nặng bụi trần, không c̣n cách ǵ có thể cởi bỏ đi được. Đă nhiều đêm ông ngồi trước Phật điện, miệng tụng kinh và tay gơ mơ, mà cuối cùng mối thương cảm và những h́nh ảnh kia lại vẫn hiện về. Lư trí của ông đă bị khuất phục trước những t́nh cảm và những h́nh ảnh ấy. Thôi th́ đành vậy, cuộc đời ông sẽ phải đổi hướng, chứ không thể ở măi nơi đây. Giáo lư đạo Phật không thể chấp nhận một người như ông, sau khi đă có những hành vi dù không muốn, và những ư nghĩ như vậy, ông hoàn toàn hiểu như thế. Phải chi, ông là con người yếu đuối hay một ông lăo khô héo, luôn luôn sống giữa làng nước th́ đă đi một lẽ, đằng này ông lại là một người đàn ông đang c̣n tráng kiện, đă từng một ḿnh ra biển cứu nạn khi có sóng to băo lớn, th́ việc tiếp tục ở lại tu hành là điều không thể, sau khi đă có những hành vi và ư nghĩ như thế xảy ra. Dứt khoát ông sẽ phải hoàn tục trở lại.

     Khoảng chừng nửa tháng sau, khi ấy sức khỏe của ba mẹ con người thiếu phụ đă hoàn toàn b́nh phục, không khí trong đảo cũng thật yên vui, đầm ấm như trong một gia đ́nh, th́ cũng là lúc nhà sư thực sự đương đầu với vấn đề đưa hay không đưa ba mẹ con nàng trở vào đất liền để tŕnh báo với quan sở tại. Nhà sư h́nh dung ra trước mọi việc sẽ xảy ra như thế nào.

     Có thể, khi tŕnh báo với quan huyện xong, th́ huyện sẽ đưa lên phủ, rồi phủ sẽ đưa lên triều đ́nh. Cũng có thể, chỉ đến huyện hoặc phủ thôi, th́ bị giữ lại. Mà dẫu có đưa đến đâu th́ mẹ con nàng cũng sẽ bị xung vào làm tỳ thiếp cho người ta. Nước của nàng đă mất, nhà của nàng đă tan, tất cả các người thân thích đều không c̣n, th́ việc bị xung làm tỳ thiếp sẽ là điều chắc chắn, không thể có chuyện và có lúc trở về cố quốc được. Những vị quan trên kia, dù ở huyện ở phủ hay ở triều đ́nh, th́ có bao giờ lại thiếu đàn bà con gái đẹp? Ấy vậy mà họ vẫn có quyền lấy thêm đàn bà con gái nữa ở các nơi khác đưa tới, trong khi đó, ông, một người hoàn toàn và khỏe mạnh, lại không thể có cái quyền ấy? Thế là bao nhiêu công phu khó nhọc, kể cả sự nâng niu giữ ǵn và những t́nh cảm tŕu mến của ông, hóa ra chỉ để làm tôi tớ cho người ta thôi. Ư nghĩ ấy làm cho ông cảm thấy như bị lừa gạt, sau ở đời lại có thể bất công đến như thế?

     Cũng có thể, ông vẫn suy nghĩ tiếp, chỉ vừa vào đến đất liền, trên đường giải lên huyện lên phủ th́ ba mẹ con nàng sẽ bị bọn lính hay một bộ bọn côn đồ nào đó đến cưỡng bức. Cả ba mẹ con nàng đều đẹp như thế, sẽ khó mà tránh khỏi tai vạ. Những tên cường bạo sẽ đè nghiến những thân thể kia ra để hành hạ cho đến kiệt sức mà chẳng thương tiếc ǵ. Ư nghĩ ấy làm cho ông thấy chua chát, tựa như chính bản thân ḿnh vừa đánh mất đi một vật ǵ đó thật quư giá.

     Thế mà ông, chaÜng lẽ ông lại để cho tất cả những điều ấy có thể xảy ra hay sao? Cuộc đời tu hành của ông, v́ tất cả những ǵ liên quan đến ba mẹ con nàng, nên sẽ không thể c̣n tiếp tục được nữa, th́ bây giờ đây sẽ phải xử trí ra sau? Chẳng lẽ ông phải sống nốt cuộc đời, sau khi đă hoàn tục trở lại, trong buồn thương quạnh vắng và trong nhớ thương vô hồi vô hạn, cho đến lúc xuống mồ? Không, ông không thể buông xuôi cho những điều ấy có thể xảy ra được. Ông phải là người che chở, là chỗ dựa vững chắc cho cả ba mẹ con nàng. Ông cảm thấy số phận ông từ nay sẽ gắn bó vĩnh viễn với số phận của ba mẹ nàng, mà không cách ǵ, không thế lực nào có thể chia cách nỗi. Ông sẽ hoàn tục, sẽ mang ba mẹ con nàng và chú tiểu vào đất liền, đi đến một nơi nào đó, để làm ăn sinh sống như mọi người. Hai bàn tay săn chắc và tài sông nước của ông chắc chắn có thể đem lại một cuộc sống gia đ́nh ấm no hạnh phúc, và ông hoàn toàn tin tưởng như vậy.

     Và ông đă đi tới quyết định. Một buổi tối, sau khi tụng kinh niệm Phật xong lần cuối cùng, và mọi người đă đi ngủ, th́ ông vẫn ngồi viết một lá thư thật dài, trong đó kể hết nông nổi nguồn cơn và các hoàn cảnh mà mẹ con người thiếu phụ sẽ lâm phải. Cuối thơ ông ngỏ lời muốn cưới nàng làm vợ rồi cùng nhau đi khỏi nơi đây. Lời trong thư của ông thật chân thành, cảm động, và ông không hề dấu nàng một điều ǵ. Không thể trực tiếp trao đổi bằng lời v́ ngôn ngữ bất đồng, nên ông chỉ có cách ấy để biểu lộ t́nh cảm, và phấp phỏng chờ mong thư phúc đáp của nàng.

     Sáng hôm sau, lựa lúc chỉ có hai người, ông trao bức thư cho nàng, rồi lên mảng vào bờ đi mua lương thực, thực phẩm như mọi lần.

     Trong lúc ông đi vắng, ở nhà, t́m được lúc thuận lợi, nàng mở thư ra đọc. Vừa đọc, sắc mặt nàng vừa biến đổi. Nó chuyển từ màu hồng sang màu tím tái. Sự việc mà trong thư vẽ ra thật quá đột ngột, đối với nàng. Là người phụ nữ quyền quư vào bậc nhất nh́ của một đất nước, lại quá ư nhạy cảm, nên nàng h́nh dung ngay ra cái cảnh vợ chồng thường dân mà bức thư đă đề cập tới. Đây là điều nàng không thể chấp nhận, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Phải chi nàng chỉ là một cô hầu, hoặc là một người xuất thân từ trong đám b́nh dân, th́ đă đi một lẽ khác. Đằng này, đường đường là một công chúa, rồi là một mệnh phụ, từ thuở lọt ḷng đă quen sống trong nhung lụa và đài các, nên nàng không thể tưởng tượng và chấp nhận nổi một đời sống thường dân. Nó là những ǵ tối tăm, bần hàn và nhục nhă đối với nàng. Nếu sau này có phải lâm vào t́nh trạng ấy th́ nàng cũng quyết không thể nào chấp nhận. Trong sâu thẳm cơi ḷng, nàng vẫn c̣n le lói chút hy vọng sẽ có lúc được trở về cố quốc, nếu không c̣n được hưởng cuộc đời phú quư, th́ chí ít cũng sống thanh bạch cho đến hết tuổi già. Và v́ vậy, việc chấp nhận lấy nhà sư sau khi đă hoàn tục, đối với nàng, hoàn toàn sẽ là điều không thể.

     Là người phụ nữ đă từng sống giữa một triều đ́nh Nho giáo từ tấm bé, nên nàng cũng không có cách giải quyết nào khác hơn là tuân theo tam cương nhũ thường. Khi chưa đủ ba năm, th́ dù muốn, nàng cũng không thể nào tính đến chuyện tái giá được. Vả lại, h́nh ảnh cả triều đ́nh tan tác, người bị giết, người phải tự sát, c̣n số đông phải chết đuối giữa biển khơi, trong đó có cả nhà vua và hoàng hậu và vị đại thần chồng nàng, bấy lâu nay vẫn luôn luôn ám ảnh mỗi giấc ngủ của nàng và trở thành những giấc mơ kinh hoàng nhất. Trong t́nh trạng như vậy, nàng không thể nghĩ đến chuyện tái giá, cho dù đấy là nơi môn đăng hộ đối đi nữa.

     Dẫu trong ḷng nàng có thực sự mang ơn cứu mạng của nhà sư và nhận thấy trong các cử chỉ, hành vi của nhà sư không có điều ǵ khuất tất, th́ nàng cũng không thể chấp nhận một cuộc hôn nhân với nhà sư được. Ḷng biết ơn và sự thành kính nàng vẫn luôn ghi nhớ trong ḷng. Trước lúc đi khỏi nơi đây, nàng sẽ gởi lại một số đồ trang sức quư giá để tỏ ḷng biết ơn, c̣n việc kết duyên th́ dù thế nào cũng không để xảy ra. Nàng vẫn c̣n nhớ về cố quốc, và hơn nữa, c̣n nhớ ḿnh đă từng là một công chúa và một mệnh phụ.

     Sau khi suy nghĩ kỹ càng, người thiếu phụ xin chú tiểu giấy bút mực để viết một lá thư, nói thác là để gởi cho quan sở tại (tất nhiên là bằng ngôn ngữ cử chỉ). Trong thư gởi nhà sư, nàng tŕnh bày hết mọi lẽ để nhà sư hiểu hoàn cảnh của ḿnh. Nàng cũng bày tỏ ḷng biết ơn chân thành của ba mẹ con, một mực gọi nhà sư là "ân nhân", và "xin ân nhân không nên nghĩ đến chuyện này nữa để khỏi sao nhăng con đường tu hành".

     Sau khi đọc xong lá thư trả lời của người thiếu phụ, nhà sư hoàn toàn thất vọng. Có một cái ǵ đó sụp đổ trong tâm hồn ông. Bao nhiêu hy vọng của ông đă tan thành mây khói, mà những hy vọng ấy mới chân thành làm sao! Nhà sư tự cảm thấy ḿnh thật tội nghiệp, cô đơn, côi cút ở trên cơi đời này. Không thể tiếp tục cuộc đời tu hành v́ ḿnh đă phạm giới luật, cũng không thể hoàn tục được v́ như thế sẽ phải măi măi sống trong cô đơn, thương nhớ cho đến măn đời, và đó sẽ là một điều kinh khủng nhất đối với một người đă từng yêu!

Trước mặt nhà sư bây giờ chỉ c̣n là một vực sâu thăm thẳm mà ông sẽ nhảy vào đó để cho quên hết mọi sự đời. Suốt đêm sau đêm đọc lá thư, ông ngồi cầu kinh niệm Phật trước Phật điện. Mọi người đă đi ngủ hết mà ông vẫn c̣n ngồi như thể hóa đá. Ông xin Đức Phật tổ hăy tha thứ cho những lỗi lầm mờ tối của ông. Ông cũng xin Đức Phật tổ chấp nhận cho ông được chết để chuộc lại mọi lỗi lầm.

     Gần sáng, ông uống trọn môït liều thạch tính đă chuẩn bị ngay từ lúc mới nhập Phật điện. Một lúc sau thuốc ngâm. Ông dẫy nhẹ mấy cái rồi từ từ khép vành mắt lại. Ba người phụ nữ và chú tiểu lúc ấy đều ngủ say, nên không ai hay biết ǵ cả.

     Sáng hôm sau, mọi người thức dậy, thấy nhà sư đă chết. Thiếu phụ là người đầu tiên nói rằng nhà sư chắc bị cảm mạo nên mới bị chết đột ngột như thế để cho hai con gái và chú tiểu yên tâm, c̣n trong thâm tâm, nàng hoàn toàn hiểu rơ nguyên nhân và liều thuốc độc đă giết chết nhà sư như thế nào. Sau khi mai táng chu đáo cho nhà sư xong, nàng âm thầm lặng lẽ như một cái xác không hồn. Nàng tự trách ḿnh đă là nguyên nhân gây ra cái chết ấy. Nhớ lại những việc nhà sư đă làm cùng lá thư mà nhà sư đă viết, nàng thấy ông là một con người hoàn toàn tử tế và đáng kính trọng biết bao. Ông là ân nhân thực sự của ba mẹ con nàng. Một người như thế mà bỗng nhiên phải chết! Giánhư mẹ con nàng cứ bị chết đuối ở ngoài biển khơi, để nhà sư khỏi phải trông thấy th́ đâu đến nỗi một người tử tế như thế phải chết oan khốc thế này? Càng nghĩ, người thiếu phụ càng thấy xiết bao ân hận, những ước mơ của nhà sư sau khi hoàn tục, đâu có phải là điều ǵ xấu xa, trái lẽ? Nhà sư không phải là một người quyền quư nhưng con người ông chẳng chân thành và cao quư đó sao? Giá như nàng có thể đáp ứng được ước nguyện của ông th́ đâu đă xảy ra cơ sự này?

Người thiếu phụ cũng nghĩ đến tương lai mà lá thư trước đây đă thử vẽ ra. Bị ô nhục giữa đường hay bị xung làm tỳ thiếp th́ cũng đều nhục nhă cả. Con đường về cố quốc quả là xa lơ xa lắc, không c̣n chút hy vọng nào nữa, bởi v́ quân thù vừa mới đặt chân đến mà triều đ́nh th́ đă tan tành, chẳng c̣n ai sống sót. Giang sơn không thể khôi phục được, nếu có cố công t́m về th́ cũng bị rơi vào tay ngoại bang, rồi làm tỳ thiếp hay làm kẻ hầu người hạ ngay tại quê hương của ḿnh, và điều ấy lại c̣n nhục nhă hơn bao giờ hết.

     Người thiếu phụ thấy hiện ra trước mắt con đường đầy chông gai, c̣n ḿnh th́ hoàn toàn lẻ loi cô độc, không có người bảo trợ. Sau cái chết của nhà sư, nàng hiểu chắc chắn rồi đây mẹ con nàng sẽ chẳng t́m thấy đâu một người ân cần tử tế như thế nữa. Cuộc đời cả ba mẹ con nàng quả đang ở ngay trước ngơ cụt. Thà chẳng bao giờ thấy ḿnh phải rơi vào sự ô nhục là hơn.

     Hoàn toàn thất vọng, người thiếu phụ thấy không c̣n muốn sống nữa. Nàng không ăn, không uống, suốt mấy ngày lặng lẽ âm thầm. Một buổi tối, khi hai con gái và chú tiểu đă ngủ say, th́ nàng trở dậy, lặng lẽ bước ra khỏi nhà. Nàng đi ra phía biển, rồi cứ thế, lội măi ra vùng nước sâu ...

     Sáng hôm sau, hai người con thức đậy không thấy mẹ đâu, th́ vừa kêu khóc vừa bổ đi t́m. Một lúc sau, thấy xác mẹ nổi dập dềnh ở bên mép nước. Hai cô gái cùng chạy xuống, và trong nỗi đau thương tột độ, cùng nắm tay nhau, trầm ḿnh vào làn nước biếc ...

     Đến lượt chú tiểu đi t́m th́ thấy cả ba mẹ con người thiếu phụ đă chết. Chú bàng hoàng, kinh hăi, không biết phải xử trí thế nào. Vừa hay, lúc đó ở phía đất liền có vài cánh buồm xuất hiện. Chú ngồi chờ cho đến khi có thể vẫy tay ra hiệu được, liền làm dấu để cho thuyền tiến vào đảo. Khi các thuyền cập đảo, những người dân chài bước xuống nghe câu chuyện chú tiểu thuật lại, ai nấy cũngï đều thương xót. Họ cùng nhau vớt xác ba người phụ nữ, t́m đồ khâm liệm, rồi đem chôn ở bên cạnh ngôi mộ nhà sư. Thật vô t́nh mà như hữu ư, như khi c̣n sống nhà sư đă từng mơ ước, là từ nay số phận sẽ vĩnh viễn gắn bó cuộc đời của họ lại. Chỉ có điều, sự gắn bó ấy lại chẳng thể xảy ra ở chốn dương gian này! Âu đó cũng là số kiếp của họ vậy!

     Chùa bấy giờ không c̣n người trụ tŕ nữa. Chú tiểu c̣n quá nhỏ chưa đủ khôn lớn để có thể ở lại tu luyện một ḿnh. Vả lại, sau mấy cái chết vừa rồi, bản thân chú cũng đă quá sợ hăi. Chú xếp đồ đạc rồi theo những người dân chài vào đất liền, trở về nhà thôi không đi tu nữa.

     Ngôi chùa lâu ngày cũng trở thanh nơi hoang phế, v́ chẳng c̣n ai đến thăm nom. Tuy vậy, những người dân chài vẫn phải tiếp tục công việc làm ăn sinh sống của ḿnh. Thỉnh thoảng họ vẫn phải ghé vào đảo mỗi khi xảy ra giông băo. Họ lấy làm tiếc v́ không có người giúp đỡ những lúc khó khăn, nhưng khi c̣n nhà sư trụ tŕ. Và chính những lúc như thế, họ lại càng thấm thía công lao của nhà sư quá cố ...

     Mấy tháng sau, dân chài trong vùng cùng nhau góp công sức của để dựng ngôi đền, thờ bài vị của nhà sư. Đền được dựng ngay trên nền của ngôi chùa cũ. Ba mẹ con người thiếu phụ bất hạnh cũng được lập bài vị để phối thờ. Họ tin rằng những âm hồn bơ vơ, từ nay có nơi nương tựa, sẽ phù hộ độ tŕ, giúp cho họ đánh bắt được nhiều tôm cávà mọi sự cũng đều tai qua nạn khỏi.

     Những lời khấn nguyện của người dân chài ấy, vậy mà hóa ra ứng nhiệm. Cửa Cờn từ đó trở thành nơi đi về của nhiều thuyền bè đánh cá và có tiếng là một cửa biển mang lại nhiều tốt lành.

     Trải thời gian, ngôi đền được tu bổ thêm, rồi được xây cất trở nên khang trang, vững chải. Hương khói ở đó quanh năm không lúc nào dứt. Dân đi biển mỗi khi ghé qua, đều đến đền thắp hương tưởng niệm. Họ cầu mong sự phù hộ độ tŕ mà cũng là để chia sẻ nỗi niềm với những người thiên cổ ...