Nguyễn Huệ
quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, cùng ḍng họ với Hồ
Quư Ly và Hồ Xuân Hương. Năm Ất Mùi (1655), quân Nguyễn chiếm được 7 huyện
ở sông Lam, bắt dân đưa vào Đàng Trong khai hoang. Cụ tổ bốn đời của
Nguyễn Huệ bị bắt vào Nam. Lúc đầu ở ấp Tây Sơn Nhất thuộc huyện Quy Ninh,
phủ Quy Nhơn. Đến đời Hồ Phi Phúc rời đến ở ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn,
nay là thôn Kiên Mỹ, xă B́nh Thành, huyện Tây Sơn, B́nh Định. Hồ Phi Phúc
và bà vợ là Nguyễn Thị Đồng sinh ra 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và
Nguyễn Huệ.
Nguyễn Huệ sinh năm 1753 tại một ngôi nhà nhỏ bên bờ sông Côn, nơi có bến
Trường Trầu, cùng với giếng nước, cây me xưa vẫn c̣n đến ngày nay. Thuở
nhỏ, Nguyễn Huệ có tên là Hồ Thơm. Ba anh em Nguyễn Huệ đều theo học thầy
giáo Hiến - một nhà Nho bất đắc chí với chính sách tàn ác của Trương Phúc
Loan nên trốn vào Quy Nhơn mở trường dạy học ở ấp An Thái (An Nhơn ngày
nay). Biết tài năng khác thường của ba anh em Tây Sơn, nên ông đă truyền
cho họ hoài băo và ư chí của ḿnh. Ông thường kể với họ việc chúa Nguyễn
mưu biến Đàng Trong thành một nước riêng biệt, sống xa hoa đàng điếm.
Quyền thần Trương Phúc Loan mặc sức đặt quan lập chúa, hăm hại người trung,
vơ vét tiền của. Vàng bạc châu báu của Loan sáng rực cả sân. Ông khích lệ,
cổ vũ cho sự nghiệp lớn của họ bằng câu sấm: “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công”,
nghĩa là Tây Sơn khởi nghĩa sẽ lập nên sự nghiệp lớn ở đất Bắc, các con phải
gắng sức.
Mùa xuân năm 1771, lúc Nguyễn Huệ 18 tuổi, cuộc khởi nghĩa bùng nổ, đất
Tây Sơn sôi động. Lá cờ nghĩa bằng lụa đỏ dài 10m được dựng lên với khẩu
hiệu lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo và lời hịch kể tội Trương Phúc
Loan: “Giận phó quốc ra ḷng bội thượng; Nên Tây Sơn xuống nghĩa Cần Vương”.
Trong sách viết về nhà Tây Sơn được phổ biến dưới thời Nguyễn, con người
và sự nghiệp Nguyễn Huệ đă bị xuyên tạc. Nhưng qua những tài liệu ấy, kết
hợp với những tài liệu mới phát hiện gần đây, ta có thể thấy vài nét chân
dung Nguyễn Huệ. Ông có mái tóc xoăn, da săn, mắt sáng, tiếng nói sang sảng
như chuông, nhanh nhẹn và khỏe mạnh. Ông “có một con mắt nhỏ, nhưng cái
tṛng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn, th́ ánh sáng từ mắt soi sáng cả
chiếu” (Tây Sơn lược thuật). Thậm chí, một cung nhân của nhà Lê nói rằng:
“Nguyễn Huệ trỏ tay, đưa mắt, ai nấy đă phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm
sét…”. (Hoàng Lê nhất thống chí).
Tiếng nói của Nguyễn Huệ cũng rất đặc biệt, như tiếng chuông, lời nói ngắn
gọn, giản dị, thấm vào ḷng người, tạo nên sự gần gũi, đồng cảm sâu sắc.
Một lần ở Thanh Hóa, Nguyễn Huệ ngồi trên ḿnh voi nói lớn: “Chư quân, hăy
v́ ta giết sạch chó Ngô đi. Nếu ai không muốn chiến đấu th́ hăy xem ta
trong một trận giết hàng vài vạn mạng người, đấy không phải là chuyện lạ đâu”.
Ông vừa dứt lời, quân lính dạ ran như sấm, rung động núi rừng, trời đất
biến đổi cả cảnh sắc, chiêng trống đồng thời vang lên (Lê Quư kỷ sự).
Nguyễn Huệ được xem là một bậc anh hùng lăo luyện, dũng mănh và có tài cầm
quân. Năm lần vào Nam, ba lần ra Bắc, đều ẩn hiện như quỷ thần. Mỗi lần
xông trận, ông thường dẫn quân đi đầu. Ngày mồng 5 tết Kỷ Dậu, trời c̣n chưa
sáng, Nguyễn Huệ thân chinh đốc chiến, cho hơn trăm voi tiến lên trước, bộ
binh theo sau, đánh nhau kịch liệt với quân Thanh. Giữa trưa, ông cùng với
tướng sĩ, chiến bào nhuộm đen khói thuốc súng, tiến vào Thăng Long, kết
thúc chiến dịch Ngọc Hồi - Đống Đa lịch sử. Tuy là vơ tướng, nhưng Nguyễn
Huệ rất am hiểu văn chương. Ông là vị Hoàng đế đầu tiên mạnh dạn dùng chữ
Nôm để viết các văn bản của triều đ́nh và cho lập Viện Sùng chính, sắc
phong La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp làm Viện trưởng để lo việc dịch sách chữ
Hán ra chữ Nôm dùng vào việc dạy học cho nhân dân. Tương truyền trong một
bức thư của vua Càn Long xin hai con voi đực đă được huấn luyện thuần thục
của nước ta, Hoàng đế Quang Trung đă phê dí dỏm rằng: “Thằng Càn Long nó
xin hai con voi; Xem con nào cụt ṿi cho nó một con”. Hàng ngày, Nguyễn
Huệ ứng đối, pha tṛ rất giỏi. Lần ra Bắc diệt họ Trịnh, khi Nguyễn Hữu
Chỉnh ngỏ ư làm mối công chúa Lê Ngọc Hân cho ông, ông đă nói làm cho mọi
người đều cười ầm: “V́ dẹp loạn mà ra, để rồi lấy vợ mà về, bọn trẻ nó cười
cho th́ sao. Tuy nhiên, ta mới chỉ quen gái Nam Hà, chưa biết con gái Bắc
Hà, nay cũng thử xem có tốt không…”. Tuy vậy, Nguyễn Huệ rất nhân hậu,
biết trọng nhân tài và giàu ḷng thương người, với người tài và biết thời
thế như Trần Văn Kỷ, Ngô Th́ Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp… th́ ông tin
dùng đối đăi rất hậu. Với kẻ có tài nhưng không chịu cộng tác, ông vẫn mở
cho họ con đường sống: “Đáng lẽ trẫm phải ra oai sấm sét, khép các ngươi
vào tội không chịu làm tôi, tịch thu gia sản và giết các ngươi để tỏ rơ
phép thường. Nhưng các ngươi như người có bệnh nặng mà tối tăm nhầm lẫn...
Trẫm một ḷng yêu tiếc nhân tài, không thể chốc lát quên được. Nên đặc
trách ban ơn tha tội cho các ngươi”.
Trong gia đ́nh, Nguyễn Huệ sống với vợ con rất t́nh cảm. Ông có hai bà
Hoàng hậu. Bà chính cung quê ở Quy Nhơn, là em cùng mẹ khác cha với Thái
sư Bùi Đắc Tuyên và H́nh bộ thượng thư Bùi Văn Nhật. Bà này sinh được 5
người con, 3 trai, 2 gái. Nguyễn Quang Toản là con cả, được lập làm Thái
tử, về sau là vua Cảnh Thịnh. Bà họ Phạm là một phụ nữ thôn dă, nhưng có
lẽ do gắn bó với Nguyễn Huệ từ rất sớm nên được ông quư trọng, thương yêu.
Khi bà bị bệnh nặng, ông đă mời một thầy thuốc người Tây tên là Gi-ra vào
chữa. Nhưng khi Gi-ra đến nơi th́ bà đă mất. Trong một bức thư viết ngày
17/7/1791, giáo sĩ Sécrard đă kể: “Chánh hậu của Tiên vương (Quang
Trung) mất vào khoảng tháng ba và ông đă khóc bà một cách sầu thảm. Ông đă
cử hành tang lễ vô cùng linh đ́nh trang trọng cho bà vào cuối tháng sáu.
Dân Nam Hà đồn khắp nơi rằng ông đă băng hà v́ quá đau buồn”.
Bắc cung hoàng hậu là công chúa Lê Ngọc Hân, con gái thứ chín vua Lê Hiển
Tông và bà nguyên phi Nguyễn Thị Huyền người làng Phù Ninh, huyện Đông
Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay là xă Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà
Nội). Ngọc Hân sinh ngày 27 tháng 4 năm Canh Dần (1770) tại quê ngoại, mất
năm Kỷ Mùi (1799). Ngọc Hân đă sinh hạ cho Nguyễn Huệ một con trai là
Nguyễn Văn Đức và một con gái là Nguyễn Thị Ngọc, sau này đều bị triều
đ́nh nhà Nguyễn giết hại. Công chúa Ngọc Hân là người phụ nữ tài sắc vẹn
toàn, vua Quang Trung rất yêu và có phần tự hào về bà. Hôm cưới, ông đắc ư
nói với Ngọc Hân: “Con trai con gái nhà vua đă có mấy người được vẻ vang
như nàng ?”. Hôm lễ tế vua Lê Hiển Tông, Nguyễn Huệ mặc đồ tang, đứng coi
xét lễ nghi hết sức chu đáo… Nguyễn Huệ sống khoan dung, nhân hậu nên
những người gần gũi ông đều tỏ ḷng cảm kích. Bài thơ khóc chồng của công
chúa Ngọc Hân thật cảm động, chứng tỏ t́nh yêu và ḷng ngưỡng mộ của bà
với tài, đức, công lao sự nghiệp của Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ...
|