Ở một vài
đô thị Việt Nam hiện đại, như thủ đô Hà Nội, người ta đă làm và bán bánh
chưng, bánh dầy hằng ngày, như một thứ hàng quà, để phục vụ cho thị hiếu
thích ăn quà của người dân đô thị. Quà là để ăn chơi, tất nhiên cũng có
thể "ăn no quà", nhưng về bản thể luận, quà là món ăn chơi, ăn qua loa
thôi, chứ không phải là thứ lương thực thực phẩm chủ yếu, hằng ngày...
Trong phong tục học và tâm (lư) học, người ta thường phân biệt hai cặp phạm
trù:
- Cái thiêng liêng/cái thông thường (hay cái thiêng và cái tục).
- Cái nghi lễ/cái hằng ngày.
Giữa hai phạm trù này, có một phép biện chứng chuyển hóa lẫn nhau.
Ví như xôi, vốn là lương thực hằng ngày của người Việt cổ thời đại Đông
Sơn - Âu Lạc trở về trước (trong nhiều di chỉ Phùng Nguyên - Bàu Tró đă
t́m thấy chơ đồ xôi bằng đất nung) cũng như của các cư dân Thái-Mường miền
thung lũng trước Cách mạng Tháng Tám
Với xu hướng "tẻ hóa" của nhà nông trồng lúa nước (do áp lực dân số và nhu
cầu tăng năng xuất lúa), dần dà người Việt thời Lư, Trần và người Thái người
Mường hôm nay hằng ngày đều dùng cơm tẻ. Người ta dành chỗ xôi cho những
ngày giỗ chạp, tết nhất, cưới xin, ma chay... nghĩa là chuyển hóa xôi
thành món ăn nghi lễ.
Bánh chưng bánh dầy ở đô thị thời hiện đại đă thuộc phạm trù cái hằng ngày,
hay nói cách khác, đă được giải thiêng.
Nhưng ở thời đại Việt cổ truyền, và chừng nào đó, ở nông thôn Việt Nam cho
đến Tết xuân này, bánh chưng bánh dầy vẫn thuộc phạm trù nghi lễ. Người ta
chỉ làm và dùng nó (dùng để cúng, để ăn, để làm quà biếu tặng nhưng thường
không để bán) trong ngày Tết hay trong những ngày lễ hội (nhiều làng đồng
bằng Bắc Bộ có tập tục Tết, rằm tháng Giêng cúng và dùng bánh chưng, lễ
hội tháng Ba lịch trăng (Mồng 3, mồng 6, mồng 10...) cúng và dùng bánh
dầy, chè kho).
Ngày trước, bánh dầy, bánh chưng là những lễ vật và món ăn dân tộc. Bây
giờ nó vẫn c̣n là món ăn dân tộc đáng cho ta ǵn giữ và trân trọng. Nhưng
xin nhận thức lại cho đúng mức hơn: Nó không phải là lễ vật và món ăn độc
đáo Việt Nam theo nghĩa chỉ Việt Nam mới có, mới dùng.
Bà Á Linh, giảng viên trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội là người
Việt gốc Hoa, quê gốc ở Tứ Xuyên, theo chồng Việt Nam sang sinh sống và
công tác ở Hà Nội từ mấy chục năm nay, nhân ngày tết cổ truyền năm con Khỉ
(1980) đă cho tôi biết là ở Tứ Xuyên quê bà có loại bánh lễ gần giống như
"bánh Tét" (bánh chưng gói tṛn như cái gị) và được gọi âm Hán Việt đọc
là "tông bính" nhưng âm Hán Tứ Xuyên đọc gần như Téung pính.
Ông Ohayashi Taryo, giáo sư nhân học văn hóa trường Đại học Tokyo trong
bài báo cô đúc "Vị thần lấy trộm giống lúa" (Xem thông báo UNESCO tháng
12-1984, số chuyên đề về "Những nền văn minh lúa gạo") lại cho ta biết món
bánh mochi rất phổ biến và quan trọng của bếp ăn Nhật Bản "được làm bằng
gạo nếp hạt ngắn đem đồ lên đến khi chín mềm rồi đem giă nóng bằng chầy
cho đến khi thành bột dính trong đó không c̣n phân biệt được hạt nữa...
Mochi đóng vai tṛ quan trọng trong lễ tết, đầu năm mới ?
Đó chính là bánh dầy với các loại h́nh to nhỏ khác nhau, được bày thành
hàng trên bàn thờ cúng tổ tiên và sau đó được ăn với thứ cháo đặc biệt gọi
là ojoni trong bữa ăn nghi thức sáng mồng một Tết của người Nhật.
Cho nên, xin nói lại cho chính xác hơn là bánh chưng - bánh dầy là sản
phẩm độc đáo của một vùng văn minh lúa gạo rộng lớn ở Đông á và Đông - Nam
Á. Tất nhiên Giáo sư viện sĩ Đào Thế Tuấn cho ta biết là lúa nếp có loại
h́nh đa dạng nhất và điển h́nh nhất là ở lưu vực sông Hồng. Bởi vậy, nơi
đây phong phú các lễ vật và món ăn được chế tạo từ gạo nếp. Dù sao, bánh
chưng vẫn là lễ vật và món ăn cổ truyền điển h́nh nhất của ngày Tết Việt
Nam.
Tôi xin đưa ra một minh giải văn chương: Bà con cô bác miền nam gọi bánh
chưng là bánh tét, chữ bánh tét này là tiếng đọc chạnh kiểu miền nam của
bánh tết. Và nhân đây xin thanh toán một "ngộ nhận văn hóa". Thoạt kỳ
thủy, bánh chưng không được gói vuông như bây giờ mà gói tṛn như bánh Nam
Bộ, gọi là đ̣n bánh tét là hoàn toàn chính xác. Ngay giờ đây, xin các bạn
chỉ quá bộ sang Cổ Loa, Đông Anh ngoại thành Hà Nội thôi, vẫn thấy bà con
cố đô Cổ Loa gói bánh chưng như đ̣n bánh tét và vẫn gọi nó là bánh chưng,
thảng hoặc mới gói thêm bánh chưng vuông. Thế cho nên, cái triết lư gán
bánh chưng vuông tượng Đất, bánh dầy tṛn tượng Trời là một "ngộ sự văn
hóa". Trời tṛn đất vuông là một triết lư Trung Hoa muộn màng được hội
nhập vào triết lư Việt Nam. Đó không phải là triết lư dân gian Việt Nam.
Nó không phải là Folklore (nguyên nghĩa: trí tuệ dân gian) mà là Fakelore
(trí tuệ giả dân gian).
Bánh chưng tṛn dài tượng Dương vật, như cái chày, cái nơ. Bánh dầy tṛn
dẹt tựa Âm vật, như cái cối, cái nường.
Đó là tín ngưỡng và triết lư nơ-nường-chày-cối-chưng-dầy của dân gian, của
tín ngưỡng phồn thực dân gian. Ngay như khi đă gói bánh chưng vuông, dân
gian ngày trước vẫn có tục lệ buộc hay ấp hai chiếc bánh một sấp một ngửa
đặt trên bàn thờ và khi biếu họ hàng khách khứa ngày trước dân gian cũng
giữ tục biếu một cặp bánh chưng (cũng như trước đấy bao giờ dân ta cũng
mua một đôi chiếu) chứ không bao giờ tặng một chiếc bánh chưng (cũng như
không bao giờ mua một chiếc chiếu). Nhân tiện nói thêm: việc mua hay chặt
cây mía cả gốc cả ngọn đặt bên bàn thờ với giải thích hữu thức ngày sau đó
là "gậy chống của ông vải" về nguyên ủy cũng thuộc về tín ngưỡng phồn
thực.
Bánh chưng gói ghém trong nó cả một nền văn minh nông nghiệp lúa gạo.
Trong bầu khí văn minh đó, người Việt Nam sống vừa ḥa hợp (thích nghi tối
đa và tối ưu) vừa đấu tranh (biến đổi) với tự nhiên. Lá dong gói bánh là
lá dong riềng lấy sẵn của thiên nhiên. Cái bánh chưng, là sản phẩm của
trồng trọt và chăn nuôi Việt Nam: gạo nếp, đỗ xanh, hành, thịt lợn... Cái
đặc sắc, độc đáo của bánh chưng không phải chỉ là, thậm chí không phải chủ
yếu là ở từng yếu tố họp thành cái bánh mà là ở cơ cấu của bánh, nó tạo
nên nét khác biệt trong h́nh khối, mầu sắc, hương vị của bánh chưng so với
các loại xôi đỗ và bánh nếp khác. Với gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn... có thể
tạo nên mấy chục loại bánh xôi Việt Nam dùng hằng ngày như quà và trong
các dịp cưới xin, giỗ, tết như lễ phẩm.
Huyền thoại quy công sáng tạo bánh chưng bánh dầy cho Lang Liêu, một người
con thứ của vua Hùng, tổ dựng nước Việt Nam. Cũng như "vua Hùng", "Lang
Liêu" là một "anh hùng văn hóa", nó không hề hiện hữu như một cá thể (cá
nhân) nhưng chỉ tồn tại trong công thể (cộng đồng) của nhân dân, dân tộc
Việt Nam. Lang Liêu có tài sáng tạo, làm ra bánh chưng bánh dầy cho nên
được nhường ngôi, trở thành "vua Hùng" mới. Tuy cũng là cha truyền con nối
như xu hướng phổ quát của lịch sử loài người, nhưng không truyền cho con
trai trưởng (trước thế kỷ 19, dường như Việt Nam không có tập tục này và
sau đó cho măi đến thế kỷ 14, 15 (Hồ Quư Ly cũng không nhường ngôi cho con
trai trưởng là Hồ Nguyên Trừng mà cho con thứ là Hồ Hán Thương) nó vẫn là
một truyền thống yếu, có xu hướng ngoại sinh) theo lư, cũng không truyền
ngôi cho con trai của một bà ái phi nào theo t́nh, mà truyền ngôi cho con
nào hiền tài, đó là sự kết hợp giữa truyền tử và truyền hiền, đó là sự ḥa
hợp lư tính thời cổ đại...
Trong các cuộc thi tài thuở trước, mà ở đây là thi nấu cỗ, có biết bao
người con của "vua Hùng" đă làm ra biết bao nhiêu món lạ, lạ mắt, lạ
miệng... những sơn hào hải vị kiếm tận đâu đâu... Cái giỏi của "Lang
Liêu", cái con mắt tinh đời của "vua Hùng" cũng là cái sáng giá trong bảng
giá trị văn hóa của dân tộc dân gian là t́m cái phi thường trong cái
thường thường. Trong tâm lư thường nghiệm, có thói quen chuộng lạ, ưa của
lạ. Cái hằng ngày thân quen, nếu không biết cách nh́n, cách thưởng thức,
cách biến đổi thành cơ cấu mới từ những nhân tố quen thuộc th́ dễ trở
thành nhàm chán.
T́m cái đặc biệt trong những của lạ th́ nào có khó khăn ǵ! Có khả năng
diễn tả cái phi thường bằng những cái b́nh thường mới là một tài năng đặc
biệt không dễ nhận ngay được giá trị v́ cứ tưởng là không khó mà thật ra
rất khó, v́ nó đ̣i hỏi sự thấu hiểu, sự đi sâu t́m hiểu, sự nhập thể rất
sâu trong ḷng văn hóa và nhân dân... |