|
|||||
Truyện Cổ Dân Gian Việt Nam | |||||
|
|||||
TRANH HÀNG TRỐNG |
|||||
|
|||||
|
|||||
Xưa kia ḍng tranh này sản xuất và bày bán tại các phố Hàng Trống, Hàng Nón, Hàng Ḥm và Hàng Quạt thuộc tổng Tiêu Túc (sau đổi là Thuận Mỹ), huyện Thọ Xương (nay là quận Hoàn Kiếm, Hà Nội), nhưng chủ yếu là ở Hàng Trống (xưa là thôn Tự Tháp). Phường phố này đă từng có tiếng về các ngành nghề thủ công như tranh dân gian, trống tế trống hội, ḥm tráp sơn ta, hàng thêu, quạt, nón, cờ phướn, vơng lọng v.v, sầm uất quanh năm.
Cùng với các hộ dân cư bản địa
lâu đời, cũng có nhiều thợ vẽ và thợ khắc tài hoa từ nơi khác đến đây
làm thuê cho các chủ xưởng in tranh. Do buôn bán cạnh tranh, thường in
kèm tên hiệu như Thanh An, Vĩnh Lợi, Phúc B́nh...
Khác với tranh Đông Hồ, kỹ
thuật tranh Hàng Trống kết hợp đường nét in đen từ bản khắc gỗ, với việc
tô màu phẩm bằng tay, dùng bút mềm quét phẩm nước, luôn luôn tạo được
những chuyển sắc đậm nhạt tinh tế. Nhờ vậy, màu sắc rất uyển chuyển, đáp
ứng đ̣i hỏi của khách mua tranh nơi kẻ chợ.
Tranh Hàng Trống in trên
giấy dó hay giấy báo khổ rộng. Những bộ tứ b́nh khổ to thường được bồi
trên giấy dầy, hai đầu trên dưới lồng xuốt trúc để tiện treo.
Cùng với các đề tài phản ánh
sinh hoạt thường ngày hay minh họa cổ tích, tranh Hàng Trống nổi trội về
thể loại tranh thờ, ảnh hưởng Phật giáo và Đạo giáo, với h́nh tượng tương
đối giản dị mà thể hiện công phu, không bao giờ thiếu sắc thái uy vệ về
ư nghĩa. Việc xuất hiện những tranh Hàng Trống như "Gà đàn", "Tướng Trấn môn" (Canh cửa) tại kinh đô, từ nội phủ cung đ́nh đến nhà thường dân, từng được Hoàng Sĩ Khải, một nhà thơ làm quan thời Mạc (cuối tk.16) nhắc tới. Như vậy, tranh Hàng Trống có lẽ ra đời cùng thời với tranh Đông Hồ, vốn được ḍng họ Nguyễn Đăng sản xuất truyền tới hai mươi đời, tức khoảng năm trăm năm.
Trong số bản khắc tranh Hàng
Trống c̣n giữ lại được, có mấy tấm đặc biệt giá trị, lưu tại Bảo tàng
Lịch sử ở Hà Nội dưới kư hiệu I.5484 a.b.c. Những tấm gỗ thị dầy dặn này
được khắc cả hai mặt, theo đề tài rút từ kinh nhà Phật hay cổ tích Việt
Nam, Trung Hoa, kèm cả tuổi tranh "Quư Mùi lục nguyệt khởi Minh Mệnh tứ
niên", tức là 1823 dương lịch. Những tấm ván này được khắc cách đây đă
ngót hai trăm năm, nên ta có cơ sở tin rằng ḍng trang Hàng Trống xuất
hiện c̣n sớm hơn thế khá nhiều.Một ḍng tranh dân gian...Trong ba ḍng
tranh dân gian tiêu biểu : tranh điệp Đông Hồ (Bắc Ninh), tranh đỏ Kim
Hoàng (Hà Tây) và tranh Hàng Trống th́ Hàng Trống là trung tâm làm tranh
lớn thứ hai, chỉ sau Đông Hồ. Gọi là tranh Hàng Trống bởi "ḷ" tranh quy
tụ ở phố Hàng Trống, Hà Nội. Từ đây "bắt lửa" sang Hàng Nón, Hàng Ḥm,
Hàng Quạt. Thế nhưng, dường như thời sầm uất nhất đă xa. Nay, nơi đây
chỉ c̣n sót lại duy nhất nghệ nhân Lê Đ́nh Nghiên ở phố Cửa Đông, Hà
Nội.Muốn t́m lại tranh Hàng Trống phải đến chốn linh thiêng : đền, miếu,
điện thờ, hoặc lục t́m trong các bộ sưu tập của tư nhân và các viện bảo
tàng Việt Nam cũng như ở nhiều nước. Bức tranh Ngũ hổđược coi là lớn và
hầu như c̣n giữ được vẻ đẹp thuần khiết của phong cách tranh Hàng Trống,
hiện c̣n ở Chùa làng Kim Liên.T́m lại bóng dáng tranh xưa Cả ba ḍng tranh dân gian đều sản xuất thủ công, kỹ nghệ cha truyền con nối. Tranh cỡ nhỏ, chủ đề là cuộc sống đời thường, phong tục tập quán : Hứng dừa, Đánh ghen, Tố nữ, Thả diều, Thạch Sanh, Sơn Tinh- Thuỷ Tinh... ở ḍng tranh Đông Hồ. Tranh cỡ to lại thiên về thế giới thần bí, sắc màu tôn giáo chủ yếu là tranh thờ : Bạch hổ, Hắc hổ, Ngũ hổ, Đức thánh trần, Bà chúa mẫu... trong tranh Hàng Trống.Phải chăng nguyên liệu, phong thủy và tính cách con người của mỗi vùng quyết định tính chất, phong cách của sản phẩm nơi ấy ? Một nhà nghiên cứu nhận xét người làm tranh Hàng Trống có phong cách, quan niệm và phương pháp khác hẳn tranh Đông Hồ và Kim Hoàng. Tranh Đông Hồ dập theo ba công đoạn : vẽ mẫu, khắc ván và in. In viền nét và in màu đều dùng bản khắc gỗ. Riêng tranh đỏ Kim Hoàng thêm một khâu thứ năm : in viền nét đen một lần nữa, thật đậm và rơ.Nghệ nhân Lê Đ́nh Nghiên cho biết, tranh Hàng Trống chỉ in nét đen khuôn h́nh bằng ván khắc, các khâu c̣n lại đều vờn vẽ bằng tay. Trước hết, nghệ nhân đặt ngửa ván khắc, dùng bàn chải quét đều mực tàu lên mặt ván. Đặt tờ giấy lên mặt ván, dùng xơ mướp xoa đều mặt sau tờ giấy. Bóc giấy ra th́ được tờ tranh chưa tô màu. Khi mực in nét khô, dùng bút lông vẽ lần lượt các mảng màu phẳng lên tranh theo bản mẫu. Theo nét vẽ đen viền, người ta vờn thêm một nước màu nhạt, làm nhoà bớt nét, gọi là cản, khiến khối h́nh trở lên lưu loát, mặt tranh êm dịu như tranh thuỷ mặc.Trong tranh Hàng Trống, chỉ có khâu in nét h́nh là làm hàng loạt. C̣n khâu tô vẽ màu th́ làm từng tranh, có khi sáng tạo thêm so với mẫu, tuỳ theo cây bút và khả năng của người vờn tranh. Một số nghệ nhân c̣n vẽ thẳng khuôn h́nh và màu sắc. In nét cong, họ dùng bút lông chấm màu để tô lên từng mảng đậm nhạt.Nhiều người không dùng đến bản khắc gỗ. Theo thói quen nhà nghề, cầm bút vẽ trực tiếp đường nét lên giấy, rồi tự tô màu cho tới khi bức tranh hoàn chỉnh. Thậm chí, thợ tranh ḍng Hàng Trống đôi khi c̣n vẽ các bức độc bản theo yêu cầu của khách hàng giàu có. Nét riêng của tranh Hàng Trống chính là uyển chuyển hơn, màu sắc dịu hơn. Khách mua tranh Hàng Trống cũng khác. Họ là thị dân, các phường, đền, đ́nh.Khơi lại một ḍng tranh
Ông Nghiên tuổi Dần, đời thứ
ba của một gia đ́nh vốn có truyền thống làm tranh ở làng B́nh Vọng, Thường
Tín (Hà Tây), nhưng lập nghiệp ở Hàng Trống. Cụ Lê Xuân Quế, ông nội
nghệ nhân khi xưa đă làm nghề tranh. Ông bố cũng tiếp nối nghề. Đến đời
ông Nghiên, nhà có bảy anh chị em, độc ḿnh ông theo được nghề. "Nhà nước
cũng nh́n xa trông rộng. Năm 1972, Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam mời tôi
tới chỉ độc một yêu cầu : phục chế bức tranh Hàng Trống lưu trữ tại bảo
tàng".Một ḿnh ông Nghiên sức mấy khơi lại cả một ḍng tranh ? "Tranh
Hàng Trống khổ quá lớn nuốt nhiều chỗ mà lại rẻ nên ít người buôn tranh,
nói ǵ tới người sưu tầm. C̣n nữa, làm ra tranh bây giờ đâu c̣n có chợ
tranh mà bán như trước. Gửi bán khó nên ai đặt th́ làm" - ông Nghiên nói.
"Nghề nay có tháng đói dài, có tháng làm không hết việc. Nghề th́ quư nhưng
công sá một trăm ngh́n bạc một bức nên sức nghệ thuật c̣n rẻ rúm quá" -
ông cho biết thêm.Trước kia, Xunhasaba t́m đầu ra ở các nước Đông Âu,
nhận về nhiều hợp đồng. Người làm tranh hứng khởi, trau chuốt nghề và được
dịp truyền nghề. Ông Nghiên có hai con trai nhưng theo ông "chưa có cậu
nào thích nghề, có lẽ v́ kinh tế ". Nay th́ số phận tranh dân gian, số
phận của các làng nghề truyền thống, nói rộng ra công nghệ truyền thống
vẫn đang bị kinh tế thị trường thách thức...Làm thế nào để tranh Hàng
Trống không chỉ có vị trí trong bảo tàng, không chỉ được giới nghiên cứu
mỹ thuật và nghệ sỹ đánh giá cao, mà người b́nh dân cũng được thưởng
thức, tham gia ǵn giữ cho con cháu ? Không thể đợi thẩm mỹ của công
chúng lên theo mức sống... Nhiều người nói nên mở lớp truyền nghề duy
tŕ mạch nguồn cho tranh Hàng Trống ở ngay trong Bảo tàng Mỹ thuật. Trời
xanh, giấy trắng, mực đen vẫn đổ bóng. Và Lê Đ́nh Nghiên vẫn đang tô
tranh Lư Ngư Vọng Nguyệt...Nguyễn Duy Cách - Nghiêm Quư Hào |
|||||