Pho tượng
nổi tiếng Quan Âm ngh́n mắt ngh́n tay ở chùa Bút Tháp chứa đựng nhiều "ẩn
ngữ", triết lư sâu xa. Nó cho ta biết nhiều nét về quan điểm thẩm mỹ, nhân
sinh quan và vũ trụ quan của người Việt thời Hậu Lê, nửa sau thế kỷ 17.
Tượng Quan Âm ngh́n mắt ngh́n tay ở chùa Bút Tháp, Bắc Ninh, do Trương Thọ
Nam tạc và hoàn thành vào năm 1656, thời Hậu Lê. Trên bệ tượng ghi: Nam Đông
Giao, Thọ Nam - Trương tiên sinh - phụng khắc (tạm hiểu: Nam Đông Giao là
địa chỉ, Thọ Nam là tên hiệu, Trương là họ, tiên sinh là bậc trí giả,
phụng khắc là phụng mệnh trời đất dựng tượng để thờ). Theo quan niệm của
một số nhà nghiên cứu, chữ "phụng khắc" được dịch là khắc theo ư chỉ của
nhà vua (nhưng nếu phụng mệnh vua mà khắc th́ tượng phải để ở kinh đô,
trong khi đó pho tượng này lại được thờ ở một ngôi chùa).
Tượng Quan Thế Âm bồ tát thiên thủ thiên nhăn (dân gian gọi là Quan Âm
ngh́n mắt ngh́n tay) có thể xem là một vũ trụ thu nhỏ, được sáng tác theo
hệ thống quy luật rất chặt chẽ. Đó là những quy luật âm dương ngũ hành và
bát quái, luôn bao hàm các cặp phạm trù đối lập nhưng thống nhất: Dương -
Âm (thiện - ác, đỏ - đen, sáng - tối, trời - đất). Để bạn đọc nhận biết
những mặt đối lập trên bố cục tác phẩm của Trương Thọ Nam, xin phân tích
như sau:
1. Tượng Quan Âm được làm theo thế tam tài giả, tức là mối quan hệ tổng
ḥa thiên - địa - nhân. Khi nh́n vào tượng, ṿng tṛn phía sau được gắn
gần một ngh́n bàn tay, trong mỗi bàn tay được khắc một con mắt, đó là biểu
tượng của Trời. Trời theo quan niệm ở đây là vũ trụ thu nhỏ. Trong vũ trụ,
cái thiện được biểu tượng ở thế "tam quang giả" tức là 3 cái sáng bao gồm:
mặt trời, mặt trăng và các v́ sao.
Từ xa xưa, người Việt cổ đă nhận thức được mặt trời là trung tâm sự sống,
sức mạnh thần kỳ của nó được thể hiện ở chính giữa trống đồng Đông Sơn. Ở
pho tượng này, tác giả cũng đặt mặt Quan Âm vào trung tâm của pho tượng.
Mặt trời là mặt Phật Quan Âm nổi bật nhất, sáng ngời, đầy vẻ từ bi hỉ xả.
Mặt trời ở đây được thể hiện là b́nh minh, những tia sáng chiếu tỏa lên
trên chứ không tỏa ngang, ư nói: Cái thiện là thế đang đi lên, có sức mạnh
chiến thắng, biểu tượng cho văn minh xă hội. Mặt trời sáng ngời c̣n biểu
tượng cho trí tuệ đức Phật Quan Âm đi khắp muôn phương xua tan bóng tối.
Những kẻ có hành vi ám muội cũng không thể che nổi mắt Phật. Để diễn tả
thâm ư này, tác giả đă khắc con mắt trong ḷng bàn tay biểu tượng cho hàng
ngh́n v́ sao trong thiên hà. Tất cả con số trên pho tượng đều là số lẻ,
hơn 900 bàn tay và hơn 900 con mắt. Tác giả cho rằng số 1.000 là số chẵn,
âm, tĩnh, không phát triển. Số lẻ, dương, động và phát triển không ngừng.
Điều đó có nghĩa là trong vũ trụ có vô vàn v́ sao đang quan sát trần gian.
2. Trên đă có trời, h́nh tṛn, động, thuộc dương, nên dưới hệ tượng được
biểu hiện cho đất, tĩnh, thuộc âm; h́nh vuông, nối giữa trời và đất là người
- nhân vật Quan Âm. Trời, đất, người là 3 thế lực siêu nhiên trong vũ trụ,
có sức sáng tạo không ngừng. Con rồng đen dưới ṭa sen là Hắc Long dưới
Biển Đông, tượng trưng cho cái Ác. Tượng Quan Âm ngh́n mắt ngh́n tay ngồi
trên ṭa sen, cả ṭa sen lại đặt trên đầu con rồng đen, tượng trưng cho
cái thiện bao giờ cũng ngự trị cái ác. Hai cánh tay của con rồng chỉ đỡ hờ
vào ṭa sen tạo nên một bố cục chặt chẽ, nó c̣n nói lên một điều rằng: Cái
ác cũng có một sức mạnh phi thường, chỉ một cái đầu cũng đủ đội cả toàn tượng
lên trên. Trên mũ của Quan Âm có 3 tầng đầu, mỗi tầng có 3 đầu, đầu thứ 9
là Phật A Di Đà - tượng trưng cho cơi Niết bàn. Như vậy, mỗi cái đầu là
biểu tượng của một tầng trời. Điều thú vị là A Di Đà cùng với con chim
Thiên Đường ở phía sau được gắn với hai cái đầu (số 2 thuộc âm, biểu tượng
cho linh hồn của người đă chết siêu thoát ở cực lạc). 3 cái đầu đó chụm
lại gợi cho ta về cơi tam thế "quá khứ - hiện tại - tương lai".
3. Trong các chùa, 3 ngôi tam thế bao giờ cũng được đặt ở ngôi cao nhất.
Trong nghệ thuật bố cục, Trương Thọ Nam đă gắn kết các hiện tượng với nhau
thành một biểu tượng: Cả ṿng tṛn lớn đằng sau được gắn kết với con chim
Thiên Đường, tạo thành h́nh tượng của lá bồ đề mà tâm của Phật là cuống
của lá. Đạo Phật lấy lá bồ đề làm biểu trưng. H́nh tượng mặt trăng được
đặt trước tâm của Phật như một cái gương soi lại ḷng ḿnh để xem xét hành
động hằng ngày đúng hay sai, thiện hay ác, sáng hay tối... Trên có Thiên
Đường là cơi Niết bàn, nơi ngự trị của Phật A Di Đà, dưới có địa ngục được
biểu hiện ở 4 góc, đó là 4 nhân vật to béo đang chịu cảnh thụ h́nh nhằm
răn đe những ai rắp tâm làm điều ác.
4. Trong bố cục của pho tượng này, những cánh tay được sắp xếp tuy phức
tạp nhưng lại rất nhất quán về phương pháp biểu hiện theo quy luật. Có 3
phương pháp cơ bản để biểu hiện ư nghĩa của thế tay: Thứ nhất là hai bàn
tay chắp trước ngực, đó là ư chí của con người, tâm niệm làm điều thiện.
Thứ hai là 42 cánh tay gắn ở hai bên hông tượng tỏa ra nhiều hướng hàm ư
muốn thắng được cái ác phải sử dụng cả văn lẫn vơ (những cánh tay bên phải
biểu tượng cho văn, những cánh tay bên trái biểu tượng cho vơ). Thứ ba là
thế tay của Quan Âm nâng niu mặt trăng trước tâm của ḿnh, tượng trưng cho
sự soi xét tự kiểm. Để tu hành đắc đạo, chúng sinh phải có ḷng kiên nhẫn,
tu hết đời này truyền sang đời khác, cây đức trồng càng lâu th́ phúc càng
dày. Hai cánh tay để trên đùi của Phật biểu tượng cho ư chí kiên định tạo
nên thành quả.
5. Tượng Quan Âm ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử đă chín muồi: Tác giả
Trương Thọ Nam đă tiếp thu và nâng nghệ thuật của pho tượng này lên đỉnh
cao bởi giao lưu với nền nghệ thuật điêu khắc Ấn Độ, nền điêu khắc Chăm,
nhất là những cánh tay của Phật như những cánh tay vũ nữ thanh khiết của
Chăm. Trang phục của Quan Âm được tác giả chuyển sang h́nh khối, bố cục đường
nét rất lăng mạn theo phong cách Việt Nam mà ông đă tiếp thu được từ nền
nghệ thuật Lư - Trần qua cách mô tả sen. Sen thời Lư được chạm rồng trên
các cánh hoa, sen thời Lê được chạm khắc theo những nét lửa Lê - ngọn lửa
của truyền thống chống ngoại xâm.
Ở châu Á, đạo Phật khởi nguồn nên chủ đề "Quan Âm ngh́n mắt ngh́n tay"
được tạc ở một số nước, nhưng tác phẩm do nhà điêu khắc thiên tài Trương
Thọ Nam sáng tác có nội dung hoàn chỉnh bậc nhất về thế giới quan và nhân
sinh quan theo quan điểm Phật giáo truyền thống, có h́nh thức nghệ thuật
đạt được sự hoàn mỹ tuyệt vời. Pho tượng này đă đạt giải đặc biệt khi tham
gia triển lăm nghệ thuật Phật giáo Quốc tế tại Ấn Độ năm 1958.
|