Ý nghĩa văn
hóa, lịch sử và tinh thần của trống đồng được chứng minh giá trị của mình
qua các loại trống đồng đã, đang và sẽ tìm thấy được. Trống đồng Ngọc Lũ
với hoa văn hình thuyền và những hoa văn hình chim thú điển hình, trống đồng
Sông Đà đã được giảm bớt hoa văn, trống đồng Ngọc Chung hoa văn đã được
giản lược đến mức tối đa, đặc biệt đã có 4 tượng hình cóc trên mặt trống.
Trống đồng được công nhận là sản phẩm của 2.500 năm về trước, hoa văn trên
trống đồng chính là thông điệp của người Việt thời Hùng Vương gửi cho các
thế hệ sau. Cho dù hoa văn trên trống đồng của từng giai đoạn, từng địa điểm
cư trú đều được ghi khắc theo một hệ thống và một phong cách ổn định, hoàn
chỉnh. Đặt những hình ảnh đó lại gần nhau là sự gắn bó với những phong tục
hội hè trong cùng một không gian chung. Một chủ đề rõ ràng, thống nhất được
hiện rõ trên các hoa văn của trống đồng, đó là hội làng. Tất cả các biểu
tượng được sáng tạo trên trống đồng đã hoàn toàn hợp nhau lại trong một
ngày hội, chúng hoàn toàn có sự gắn bó khăng khít giữa 3 mảng hội, đó là:
nghi lễ, biểu diễn nghệ thuật, trò vui. Và trong diễn xướng lại được người
xưa chuẩn bị rất công phu là: Âm nhạc, thanh nhạc, múa nhạc và nhạc khí.
Phó giáo sư - Tiến sỹ Đặng Văn Lung, Viện Văn học, Trung tâm Khoa học xã
hội - Nhân văn Quốc gia phát biểu: "Về hoa văn trên trống đồng cho chúng
ta thấy đây là những lễ hội về nông nghiệp, ngày hội được mùa, nó thu hút
được tất cả mọi hoạt động văn nghệ dân gian. Trong đó chúng ta thấy có âm
nhạc, múa nhảy và các nhạc khí vì vậy mà nó là cái cứ liệu chắc chắn để
xây dựng là trống đồng đã mô tả rất rõ ràng và đáng tin cậy về cách diễn
xướng dân ca của những nhạc cụ thời kỳ bấy giờ".
Trời và đất là 2 khái niệm, hành vi tượng trưng hóa của con người, là tín
hiệu của sự vật được thể hiện trên trống đồng. Vì ngay từ thời Đông Sơn,
người Việt cổ đã định cư và làm lúa nước, mà làm lúa nước thì phải "Trông
trời, trông đất, trông mưa". Và một số nhà nghiên cứu cho rằng trống đồng
là trống sấm vì tiếng phát ra như tiếng sấm. Do bám trụ với ruộng đất,
muốn cho mùa màng được bội thu, con người phải cầu mưa, cầu nước, cầu tạnh...
cầu cho mưa thuận gió hòa, không thiên tai lũ lụt, vạn vật được sinh sôi...
và chính vì đó nên những cư dân nông nghiệp hàng năm vẫn tổ chức lễ hội,
tiếng trống hội vẫn còn âm vang mãi trong các ngày hội như thế. Ngày hội
được ghi khắc trên trống đồng không phải là ngày hội nhỏ, chứng tỏ thời ấy
người Việt đã vững mạnh, đã phát triển văn hóa triết lý đến cao độ. Chính
những hoa văn trống đồng đã mở ra những cứ liệu phong phú về một nền nghệ
thuật diễn xướng có trong các lễ hội thời Hùng Vương.
Phó giáo sư - Tiến sỹ Đặng Văn Lung phát biểu: "Các hoa văn điêu khắc thể
hiện rất cụ thể về các họat động của lễ hội rất thú vị, đó là các hoa văn
về đơm đuống mà hiện nay rất dễ sưu tầm các điệu múa hát ở trong các dân
tộc thiểu số ví dụ như người Lô Lô, người dân tộc Mường. Trên trống đồng
còn có hoa văn nam nữ hát đối đáp trồng nụ, trồng hoa ở trên nhà sàn".
Nếu như nhìn vào hoa văn của trống đồng có thể coi mỗi họa tiết là một âm
tiết, mỗi hình họa là một từ, mỗi chuỗi hình họa là một câu và mỗi vành
hoa văn là một đoạn, còn toàn bộ hệ thống hoa văn là một văn bản. Sau đó
đem tất cả đặt nó lên trục phát triển lịch sử để tìm dấu ấn của cả một
thời kỳ. Ngày nay, trên hoa văn trống đồng còn lưu lại ở một số dân tộc về
các điệu nhảy và nó gần như nguyên vẹn ở đồng bào Ê Đê trong múa cầu mùa
vào mùa xuân. Người múa dậm chân xuống đất là dấu hiệu của mùa xuân, muốn
đánh thức đất dậy sau đêm đông giá rét. Các điệu múa như thế có thể do một
cá nhân tiến hành, có thể do cả một tập thể cùng tham gia. Trong trường
hợp chơi cả tập thể thì âm thanh phát ra từ nhạc cụ cộng với tiếng bước
chân đã làm khuấy động cả một không gian náo nhiệt và tưng bừng. Điều này
đã được hiện rõ trên các dải hoa văn trống đồng chạy vòng tròn. Hoa văn
ghi lại người hóa trang thành chim múa hát theo nhịp diệu của khèn,
chiêng, trống... Chứng tỏ, người Đông Sơn đã có trình độ rất cao về tạo
hình, phản ánh của họ về nhân sinh quan.
Phó giáo sư - Tiến sỹ Đặng Văn Lung phát biểu: "Nhiều nhà nghiên cứu cổ
nhạc đã nói, âm nhạc thô sơ, đó là vũ nhạc. Người ta dậm chân hay đập tay
xuống đất, đánh vào thân mình, trong khi toàn thân nhún nhảy theo nhịp
điệu. Hay từng đoạn thân, có thể toàn thân, rung động, lắc lư để làm cho
đồ vật, trang sức phát ra âm thanh".
Một quá trình lao động dài từ thấp đến cao, từ thô sơ lạc hậu đến sự phát
triển văn minh rực rỡ mà được đánh dấu là nền văn minh trống đồng, người
Việt lúc đó đã phải trải qua một quá trình lâu dài. Và cũng chính từ đây
quá trình của tư duy, thẩm mỹ và trình độ nhận thức nhân sinh quan cũng
vươn tới một giai đoạn cao hơn, họ - những người Việt thời Hùng Vương bên
cạnh nghề trồng lúa nước họ đã biết thể hiện bản thân, thể hiện ước vọng
của mình, thể hiện sự khát khao vươn lên, biến những sinh hoạt đời thường
của mình trở thành những hình thức diễn xướng dân gian trong các lễ hội
cầu mùa, mà nó được thể hiện rất rõ trên các họa tiết của hoa văn trên
trống đồng, hay qua những di vật bằng đồng tìm thấy được đã cho thấy hình
như ở đâu trong thời đại Hùng Vương đều thấy vang lên những âm thanh rộn
ràng và dìu dặt của những giọng hát và nhạc cụ tạo tiết tấu, trong đó
nhiều nhạc cụ đã đạt tới trình độ hợp âm và hòa âm vô cùng đặc sắc. Vào
cái thời xa lắc ấy, không chỉ sáng tạo nên những nhạc cụ chuyên biệt, mà
còn bằng những công cụ lao động sẵn có tạo nên những âm thanh, tạo nên lối
diễn xuất mang tính tập thể trong lao động. Đó là lối giã cối nghi lễ
(được nhân dân gọi là lối đâm đuống), theo nhịp tay đâm đuống lúc nhặt hay
thưa và tiếng chầy chuyển nhịp âm thanh khác nhau tạo nên tiếng hòa âm rộn
rã. Phải chăng, đây là sự bắt đầu cho tục đánh trống đồng của người Việt
thời Hùng Vương. Trống đồng là một nhạc cụ thiêng thuộc bộ gõ, cũng như
đâm đuống, và ngay trên mặt trống đồng cũng thể hiện rõ hai hay bốn người
đánh lên mặt trống bằng chày đứng... Điều đáng chú ý ở tục đánh trống đồng
là hình thức đánh đập ngang vào hình tượng mặt trời để gọi nước cầu mưa.
Phó giáo sư - Tiến sỹ Đặng Văn Lung phát biểu: "Hình ảnh của những phong
tục được khắc trên trống đồng theo một hệ thống và phong cách ổn định,
hoàn chỉnh".
Người Việt cổ cùng với nền văn minh lúa nước đầu tiên và với đời sống lao
động thường nhật của mình đã sáng tạo ra những huyền thoại, một hệ thống
siêu nhiên giống với con người nhằm giải thích và triết lý toàn bộ xã hội
con người thời Hùng Vương. Đó là những truyền thuyết thần thoại như:
Truyền thuyết con rồng cháu tiên, Phù đổng Thiên vương, Bánh trưng bánh
dày, Chương Tri, Mỵ Nương, Sự tích đầm Dạ Trạch, Sự tích trầu cau, Sự tích
quả dưa hấu, Sơn tinh Thuỷ tinh... Thời Hùng Vương, một thời đại đã đi vào
huyền sử, chỉ còn lại những truyền thuyết được dân gian trân trọng. Và đây
cũng là những cứ liệu khá xác thực cùng với hoa văn trên trống đồng về một
nền nghệ thuật diễn xướng giai đoạn Hùng Vương. Như đã được biết, hoa văn
trên trống đồng mô tả lại toàn bộ lễ hội trên đất Văn Lang. Trước tiên đó
là ngày hội mùa, mừng được mùa và cầu chúc cho sự làm ăn được thuận hòa,
mùa màng được phong đăng. Đó cũng là ngày hội của nam nữ, trai gái gặp gỡ
nhau, tỏ tình với nhau, theo sát với nhu cầu về sự phồn thực, đông con
nhiều cháu. Ngày nay, những hình thức diễn xướng, hát đối đáp vẫn còn bắt
gặp ở nhiều nơi. Nó trở thành những làn điệu dân ca quen thuộc ở các vùng
nông nghiệp như hát xoan - Phú Thọ, hay hát quan họ - Bắc Ninh.
Những người nông dân ở các làng đồng bằng Bắc Bộ đã sống trong những làn
điệu dân ca, không chỉ trong các lễ hội mà ngay cả trên những cánh đồng.
Họ hát để bày tỏ tình cảm của mình, cũng như làm vơi đi những nặng nhọc
trong nghề nông. Tất cả dường như đã được trống đồng mô tả lại, vì trên
trống đồng dù làm cách đây hơn hai nghìn năm đã thấy những hoa văn tả về
đôi trai gái ngồi trong nhà sàn mái cong, tay và chân đều giao nhau. Đây
có thể xem là hình ảnh của một tục lệ về hát đối đáp trai gái hồi đó. Rõ
ràng những ngươi Đông Sơn, những người Việt thời Hùng Vương đã có được
trình độ ghi nhận hiện thực chính xác với trình độ cao nhất về ý thức tạo
hình tuyệt mỹ. Các họa tiết được ghi khắc trên trống đồng thời kỳ Đông Sơn
- Hùng Vương và cùng với những dấu tích còn lưu lại trong các hình thức
biểu diễn ngày nay như âm nhạc, thanh nhạc, và múa nhảy cổ truyền đã phần
nào phác họa đôi nét về diện mạo những hình thức diễn xướng của những
người Việt cổ cách ngày nay 2.500 năm. Đây là những dấu ấn về văn hóa
truyền thống cần được bảo lưu và gìn giữ.
|