Cộng đồng
các dân tộc Việt Nam đã viết nên những trang sử đẹp chống ngoại xâm và
cũng chính những bàn tay đánh giặc, cày cuốc đó lại khéo léo tạo nên những
sản phẩm giàu tính thẩm mỹ rất đặc trưng của dân tộc.
Nói tới nghệ thuật tạo hình dân gian, người ta thường nghĩ ngay đến chạm
khắc, trang trí trên sập gụ, tủ chè hình chùm nho, con sóc, bộ ghế chạm
con rối, chữ Phúc-Lộc-Thọ... Bên cạnh đó, nền nghệ thuật chạm khắc dân
gian đồ sộ ở người Việt còn được lưu giữ trên các ngôi đình, chùa, đền nằm
rải rác ở mỗi làng quê vây quanh bởi luỹ tre xanh thầm lặng, mà cho đến
ngày nay chúng vẫn là những gì tinh tuý nhất góp phần tạo nên bản sắc văn
hoá Việt Nam.
Nghệ thuật chạm khắc dân gian của người Việt rất đa dạng, độc đáo và luôn
song hành với chạm khắc chính thống (hay chạm khắc bác học), tức nghệ
thuật chạm khắc phục vụ cho cung đình, cho tầng lớp quý tộc. Nghệ thuật chạm
khắc dân gian và nghệ thuật chạm khắc chính thống không có sự phân định rõ
rệt, có chăng chỉ ở những chi tiết rất nhỏ như hình tượng con rồng gắn với
vua chúa thì có 5 móng biểu hiện quyền hành của vua với 5 phương, còn con
rồng trong dân gian gắn với vũ trụ, với những ước vọng của người dân nên
chỉ có từ 4 móng trở xuống... Hệ tư tưởng phong kiến thống trị có ảnh hưởng
rất lớn đến nghệ thuật chạm khắc, nhưng khi ảnh hưởng của nó đã suy giảm
thì nghệ thuật dân gian lại nở rộ. Khác với các loại hình nghệ thuật khác
như dân ca, tục ngữ ca dao được thể hiện bằng lời nói, chạm khắc dân gian
không thể hiện qua lời nói mà được thể hiện ở những hình chạm hoa văn về
những biểu hiện của tự nhiên, của cuộc sống và những sinh hoạt thường ngày
của người dân được thể hiện một cách rõ nét. Ta có thể nhận thấy nghệ
thuật chạm khắc dân gian có một lịch sử phát triển khá phong phú với những
hình tượng độc đáo về thiên nhiên, về con người Việt Nam từng thời kỳ dưới
dạng thần linh hay con người thế tục. Từ thời sơ sử đến thời Lý-Trần, Mạc,
Nguyễn... mỗi thời kỳ họa tiết chạm khắc lại mang một phong cách đặc trưng
riêng. Thời kỳ này người ta không đặt ra quan niệm rành mạch thế nào là
nghệ thuật dân gian. Vào thời tiền sử, các hoa văn được trang trí trên đồ
gốm rất đơn giản dưới dạng hoa văn dập, hoa văn dấu nan đan, hoa văn khắc
vạch hình đường thẳng, hình sóng, hoa văn ấn nép vỏ sò... Các hoa văn này
biểu tượng cho sức mạnh, quyền lực và thể hiện những khao khát ước mơ của
người dân thời ấy. Đến thời Đông Sơn, người Việt cổ tập trung vào trang
trí hoa văn trên đồ đồng mà tiêu biểu là trên trống đồng. Với những họa tiết
hoa văn phong phú và đa dạng hơn rất nhiều so với thời tiền sử. Hoa văn
trong thời kỳ này được chia thành hoa văn hiện thực và hoa văn hình học.
Hoa văn hiện thực có thể kể đến như hoa văn tả người, động vật hay thực
vật là mảng hoa văn chủ đề mà người xưa muốn gửi gắm vào đó những suy nghĩ,
tâm tư, ước nguyện của mình về cuộc sống ấm no hạnh phúc. Còn hoa văn hình
học chỉ mang tính chất trang trí, làm nền cho hoa văn hiện thực. Nhưng
chính nhờ đó mà khối hoa văn hiện thực trở nên nổi nét hơn, đặc sắc hơn.
Cùng với thời gian, nhiều biểu tượng hoa văn đã mất đi, nhưng cũng nhiều
biểu tượng vẫn còn được lưu lại trong nền mỹ thuật tạo hình thời đại sau.
Sang đến thời Lý-Trần từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14 là thời kỳ Phật giáo, Đạo
giáo và tín ngưỡng bản địa thịnh hành, nên nghệ thuật chạm khắc dân gian
đa phần là những đề tài phục vụ cho tôn giáo và thờ thần nông nghiệp như:
rồng chầu lá đề, một biểu tượng của nhà Phật, tiên nữ dâng hương, hoa cúc,
hoa sen tượng trưng cho ý nghĩa nhân quả của Phật-Pháp... ở thời kỳ này,
những họa tiết hoa văn xuất hiện trên rất nhiều chất liệu như gốm, đá, gỗ
nhưng tiêu biểu cho thời kỳ này là tác phẩm chạm khắc trên bệ đá hoa sen
hình hộp thời Trần ở chùa Thầy, chùa Bá Khê, chùa Dương Liễu. Bệ đá cao
khoảng 1 mét, chiều ngang 2,5 mét, rộng 1,5 mét, được chia 5 phần và chạm
khắc theo những đề tài khác nhau như: rồng chầu lá đề, hoa sen, chim thần,
con dê, hoa cúc, cây cỏ, hình sóng nước... người nghệ sỹ xưa đã biết tìm
tòi, sáng tạo, những đường nét tuy đơn giản nhưng sống động, hấp dẫn. Họ
đã gửi gắm vào trong đó bao tâm huyết, ước nguyện từ cuộc sống hàng ngày,
về cách sống và đạo lý làm người. Mỹ thuật thời Lý - Trần có mối quan hệ
chặt chẽ với dân tộc, gần gũi với dân gian, đường nét dứt khoát, hình khối
mạnh chắc thể hiện phong cách chạm khắc độc đáo, riêng biệt mà không thể
nhầm lẫn với bất kỳ phong cách chạm khắc của thời kỳ nào. Nhà Mạc thay nhà
Lê, chấm dứt thời hoàng kim của ý thức hệ Nho giáo. Con người được tự do
hơn, mọi xu hướng mỹ thuật dân gian trước kia được phát triển mạnh mẽ.
Những nét kế thừa mỹ thuật thời Trần còn in đậm trên các trang trí kiến
trúc chùa Cói, đình Tây Đằng... với những hình rồng, hoa lá, hình sóng,
hình bông hoa sen được chạm điêu luyện, và điều đáng chú ý là những vân ốc
lớn như đứng trung tâm cả mảng trang trí. Vào thời kỳ này, trên kiến trúc
đình làng, chùa làng xuất hiện nhiều chạm khắc dân gian rất đặc sắc. Tiêu
biểu cho trang trí trên kiến trúc là đình Tây Đằng thuộc huyện Ba Vì, Hà
Tây. Nét độc đáo ở đình Tây Đằng là những bức chạm khắc trong các cấu kiện
kiến trúc với những đề tài về thiên nhiên, hoa cỏ và đặc biệt là mảng đề
tài thiên về hoạt động của con người ở làng xã Việt Nam thế kỷ 16 như: cảnh
thầy đồ dạy học, mẹ gánh con, lễ hội, bơi thuyền, uống rượu... tất cả đều
tự nhiên, mộc mạc bộc lộ cá tính của tác giả và mang đậm tính chất dân tộc.
Vào thế kỷ 16, nghề buôn bán trên biển tương đối phát triển và tượng Phật
Quan Âm Nam Hải như một yêu cầu của nghề sông nước để cầu cho các thương
thuyền ở phương Nam được thuận buồm xuôi gió. Tượng phật Quan Âm Nam Hải
ngồi trên đài sen được chạm khắc tinh xảo, sống động. Đài sen gồm 4 tầng
cánh sen xếp kên nhau, các cánh sen đều múp phồng và được trang trí hoa
văn. Dưới nữa là thân bệ gồm 3 tầng với những hoa văn chạm nổi hình rồng,
hình hổ phù và hình hoa lá, sóng nước với những nét chạm phóng khoáng, tự
do mang cá tính, phong cách cá nhân chìm lẫn trong các hình tượng thần
Phật và được duy dưỡng bởi cộng đồng làng xã Việt Nam. Có thể nói mỹ thuật
dân gian thế kỷ VII đã trỗi dậy mạnh, nhưng cho đến khoảng cuối thế kỷ 17
mới phát triển, thời kỳ này đạo Phật, đạo Lão, đạo Khổng đã tan về làng xã
và đây là giai đoạn điêu khắc tượng tròn phát triển khá mạnh mẽ. Vào thế
kỷ 17, 18 chạm khắc dân gian phát triển khá mạnh và phổ biến với những chất
liệu như gỗ, đá, đồng... Một loại hoa văn hầu như không thể thiếu vắng
trên các bia đá thời kỳ này là hình hoa dây kiểu tay mướp leo. Ngoài ra
còn có những hình hoa lá, cây cỏ, chim muông... tạo nên không khí sinh động
và vui nhộn. Bên cạnh chạm khắc trên đá, chạm khắc trên gỗ có phần đa dạng
hơn. Hình trang trí trong thời kỳ này rất vui nhộn với nhiều loại thú như
hổ, voi, ngựa, rồng... chơi tung tăng, đùa nghịch. Những hình tượng rồng,
phượng, hoa lá, đặc biệt là chim thú, con người được thẩm mỹ dân gian chấp
nhận để trở thành mẫu mực trang trí.
Với sự phát triển mạnh mẽ thẩm mỹ dân gian, những hình chạm thế kỷ 17, 18
đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Khi mà phép vua
không hạn chế được lệ làng, giai cấp thống trị cũng cảm thấy bấp bênh và
tìm đến Phật giáo, Đạo giáo. Điều đó đã tạo điều kiện cho mỹ thuật phát
triển trên nhiều dạng di tích khác nhau như đình, chùa, đền, miếu... Vào
thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, song hành giữa chạm khắc dân gian là chạm khắc
chính thống. Thời kỳ này, chạm khắc trang trí trên kiến trúc đình làng,
chùa làng dường như chững lại ở những hoa văn hình rồng, ngựa, rùa, hoa
sen, hoa cúc... Khác với trang trí trên kiến trúc, ở thời Nguyễn, các phù
điêu độc lập và đồ ứng dụng được phát triển rộng rãi. Như phù điêu Quốc tổ
Lạc Long Quân tại đình Bình Đà, Thanh Oai, Hà Tây, với nội dung ca ngợi và
ghi nhớ công đức của Người. Hay bức phù điêu Thập điện Diêm Vương tại chùa
Huyền Kỳ, Thanh oai, Hà Tây, mang ý nghĩa dăn dạy người đời phải sống nhân
hậu hơn và cư xử với nhau tốt hơn. Cũng trong thời Nguyễn, chạm khắc trên
các đồ ứng dụng bày biện trong đình, chùa, đền như hương án, bát bửu,
hoành phi câu đối, kiệu, ngai... phát tiển rất mạnh. Họa tiết hoa văn
trang trí trên các đồ ứng dụng chủ yếu là hình hoa lá, cây cỏ và đặc biệt
trang trí với hình tượng con vật được các nghệ nhân thực sự quan tâm. Nếu
họa tiết hoa lá, cây cỏ chỉ bao gồm hình sóng nước, hình hoa sen, hoa cúc
thì hình tượng các con vật lại rất đa dạng như: con rồng, nghê, phượng,
voi... Mỗi hình tượng, đường nét chạm khắc được thể hiện tinh xảo, sâu sắc
mang đậm phong cách dân gian đặc trưng của thời kỳ nhà Nguyễn.
Hoa văn cây cỏ là đề tài xuyên suốt trong nghệ thuật tạo hình của người
Việt. Sự hỗ trợ của cây cỏ đã làm cho ngôi đền, ngôi chùa, ngôi đình cổ
trở nên ấm áp hơn, linh thiêng hơn. Cây cỏ trong tạo hình của thời nào
cũng vậy, nó phản ánh đúng tư tưởng, tình cảm của người đương thời, phản
ánh những mơ ước cháy bỏng về một cuộc sống yên bình, no đủ.
Những con vật trong chạm khắc dân gian chủ yếu là linh vật, còn được gọi
là những con vật trong vũ trụ như rồng, phượng, lân, nghê... Người đời đã
gán cho chúng những khả năng siêu phàm có thể chi phối đến cuộc sống nhân
thế ở những mức độ khác nhau. Linh vật không mang hình tượng nhân cách nhưng
lại hội tụ những chức năng cụ thể nhằm tất cả vì con người, vì mối quan hệ
nhân sinh, vũ trụ. Nối tiếp hình tượng con người từ thời kỳ đồ đồng, các
thời kỳ tiếp theo đề tài này luôn được người Việt quan tâm để có một vị
trí xứng đáng.
Trong trang trí, tính chất dân dã thể hiện qua đề tài con người là sâu đậm
nhất. Hầu như trong bất kể hình thức nào tính chất đó cũng được bộc lộ rõ
ràng. Và khi đi vào cuộc sống thường nhật như: cảnh đánh cờ, chèo thuyền,
đấu vật, ôm gà... tất cả đều nói lên một giá trị điêu khắc rõ rệt với các
khối được diễn tả căng no đủ trong một hình thức đơn giản, khái quát cao,
thể hiện tinh thần vui chơi, hồn hậu của truyền thống dân tộc.
|