Một trong
những tục cổ xưa nhất của người Việt là xǎm mình. Tục này kéo dài mãi cho
đến cuối thế kỉ thứ XIII, đầu thế kỉ thứ XIV mới chấm dứt. Có người nói rằng,
bởi tục này mà tên nước đầu tiên của người Việt là Vǎn Lang. Hẳn nhiên, cách
giải thích ấy chưa đủ sức thuyết phục, nhưng dẫu sao thì tục xǎm mình cũng
là một trong những tục cổ nhất và tồn tại thuộc vào hàng lâu dài nhất ở nước
ta. Về nguyên nhân xuất hiện của tục này, sách Lĩnh Nam chích quái (phần
Hồng Bàng thị truyện) viết như sau:
"Bấy giờ, dân trên núi xuống nước đánh bắt cá thường bị thuồng luồng gây
thương tổn, bèn cùng nhau tâu việc ấy với Vua. Vua nói:
- Các giống ở trên núi khác với các loài ở dưới nước. Các loài ở dưới nước
chỉ ưa những gì giống với mình và ghét những gì khác mình, vì vậy, ta mới bị
gây hại.
Nói rồi, Vua bèn ra lệnh cho ai nấy cũng phải lấy màu xǎm hình thuỷ quái vào
người. Từ đó, không bị thuồng luồng gây thương tích nữa. Tục vẽ mình của dân
Bách Việt bắt đầu có kể từ đấy.
ở buổi đầu mở nước, mọi thứ vật dụng của dân chưa đủ. Dân phải lấy vỏ cây
làm áo, dệt cỏ ống làm chiếu, lấy gạo nếp nấu rượu, lấy cây quang lang làm
thức ǎn, lấy cầm thú cá tôm làm mắm, lấy củ gừng làm muối, đao canh thuỷ
chủng. Đất sản nhiều gạo nếp. Lấy ống bương thổi mà ǎn. Làm nhà sàn mà ở để
tránh cọp, chó sói làm hại. Cắt tóc ngắn để tiện vào rừng. Con mới vừa sinh
ra thì lấy lá chuối lót cho nằm. Có người chết thì gõ vào cối không, cho xóm
giềng nghe thấy để kéo nhau đến giúp. Con trai con gái lấy nhau, trước hết,
dùng gói muối làm lễ hỏi rồi sau đó mới giết trâu, giết dê để ǎn mừng thành
vợ thành chồng. Cùng nhau đem cơm nếp vào buồng để ǎn, vợ chồng mới thành
thân, vì lúc đó trầu cau chưa có".
Lời bàn: Chinh phục thiên nhiên vùng đồng bằng sông nước là cả một quá trình
lâu dài, phức tạp và cực kì khó khǎn. Hình ảnh những con thuồng luồng gây
thương tích cho dân có lẽ chính là một trong những biểu hiện của sự phức tạp
và cực kì khó khǎn đó.
Dân gặp khó thì kêu vua, vua ân cần chỉ cho dân tất cả những gì mình biết.
Lời chỉ dẫn ấy, đúng sai thế nào thì ta đã quá rõ, nhưng điều quan trọng hơn
lại chính là ở chỗ, trên dưới như cha con một nhà, nghĩa tình đằm thắm biết
là bao.
Có thể nói, tục xǎm mình phát triển mạnh mẽ nhất là ở thời Trần. ở thời nay,
tục xǎm mình có ý nghĩa như ý chí sắt đá, quyết tâm chống giặc ngoại xâm.
Trong khi quân đội thời Trần đều thích lên cánh tay hai chữ "Sát Thát", thì
nhân dân Đại Việt, nhiều người, dù là người đã có con cháu, cũng xǎm lên
bụng những chữ "Nghĩa dĩ quyên khu, hình vu báo quốc" thể hiện tinh thần vì
việc nghĩa liều thân, báo đền ơn nước. Xǎm mình, thích chữ vừa là truyền
thống, vừa là thi hành lời thề thiêng liêng, vừa thể hiện một tinh thần thượng
võ. Đồng thời cũng là một thái độ rõ ràng với quân địch (nhất là khi bị
bắt): tự nhận mình là kẻ tử thù với chúng.
Ngoài ra, tục thích chữ, xǎm mình còn biểu hiện sự hòa hợp với thiên nhiên,
biểu hiện ý thức tiếp nối truyền thống, không quên gốc Tổ, biểu hiện tinh
thần quyết tâm chiến đấu cho nền độc lập của dân tộc.
Vì thế, tục xǎm mình thời Trần rất phổ biến, đạt đến trình độ nghệ thuật, và
đã có thợ chuyên vẽ hình vì với người dân thời đó xǎm mình cũng là hình thức
trang điểm trên thân thể phản ánh quan niệm về cái đẹp của người đương thời.
Bấy giờ, hễ người Việt là xǎm mình, hễ ai xǎm mình là người Việt. Bạn thích
hay không thích tục xǎm mình, đó là việc riêng của bạn, nhưng, trông lại
ngàn xưa, xin bạn hãy ghi nhận cho rằng, chính tục ấy đã góp phần làm cho
Hán và Việt biệt lập rõ ràng, và cũng chính nhờ sự biệt lập rõ ràng ấy, giờ
này, bạn mới có thể ung dung mà nói: non sông ta...
Đời sống của cổ nhân ra sao, đoạn ghi chép ngắn ngủi trên kể cũng đã nói khá
rõ. Kính thay, một thời chắt chiu cần mẫn, thương thay, một thời gian truân
! Đi giữa giang sơn gấm vóc, xin chớ vô tâm quên tổ tiên ngàn đời.
|